Vợ nhặt là một trong những tác phẩm trọng tâm của chương trình Ngữ Văn, bởi vậy hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những bộ đề đọc hiểu tác phẩm Vợ nhặt nhé
1. Bộ đề đọc hiểu Vợ nhặt hay nhất:
1.1. Đề bài:
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? (Trích Vợ nhặt – Kim Lân)
Câu 1: Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
Câu 2: Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
Câu 3:Xác định thành ngữ dân gian được sử dụng trong đoạn văn và nêu hiệu quả nghệ thuật của các thành ngữ đó ?
Câu 4: Dấu ba chấm (…) trong câu văn Còn mình thì… có ý nghĩa gì?
Câu 5: Từ văn bản, viết đoạn văn bày tỏ suy nghĩ về tình mẫu tử.
1.2. Đáp án đề đọc hiểu tác phẩm Vợ nhặt hay nhất:
Câu 1: Đoạn văn trên được viết theo phương thức biểu cảm là chính
Câu 2: Nội dung chính của đoạn văn trên là: miêu tả tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ khi biết con trai (nhân vật Tràng) đưa người đàn bà lạ về nhà.
Câu 3: Thành ngữ dân gian được sử dụng trong đoạn văn: lấy vợ, làm giàu, sinh con. Hiệu quả nghệ thuật của các thành ngữ: chứng tỏ nhà văn thể hiện tài năng vận dụng sáng tạo ngôn ngữ dân gian, dòng tâm sự của người kể chuyện hài hòa với dòng suy nghĩ của nhân vật bà cụ Tứ. Tác giả hiểu được tâm tư, tình cảm của người mẹ thương con.
Câu 4: Dấu chấm lửng (…) trong câu Còn tôi… có ý nghĩa: gợi dòng độc thoại nội tâm của nhân vật bà cụ Tứ bị ngắt quãng khi bà so sánh mọi người với mình. Qua đó, người đọc thấy được tấm lòng của người mẹ già này. Cô rất thương con nhưng cảm thấy mình chưa làm tròn bổn phận, trách nhiệm của người mẹ, nhất là trong ngày vui của con. Tấm lòng bà Tứ thật cao cả và thiêng liêng
Câu 5:
a. Giới về vấn đề
– Dẫn dắt bài bằng những tình cảm cao quý trong cuộc đời mỗi con người: tình gia đình, tình anh em, tình bạn, tình yêu quê hương, đất nước…
– Nhấn mạnh tình mẹ là tình cảm giữ vị trí đặc biệt quan trọng.
b. Bàn luận vấn đề
* Khái quát về thiên chức làm mẹ:
Theo nghĩa của từ, “mẫu” có nghĩa là mẹ, “tử” có nghĩa là con, theo nghĩa gốc, “mẫu tử” có nghĩa là mẹ và con. Nhưng thông thường, khi người ta nói đến tình mẫu tử, nó có nghĩa là tình yêu thương, chở che của người mẹ dành cho đứa con của mình.
* Nói về tình mẹ
– Tình mẹ là tình cảm có vị trí đặc biệt, thiêng liêng trong lòng mỗi người bởi:
Đó là tình yêu đầu tiên mà mỗi người sinh ra và sẽ gắn bó với nó đến hết cuộc đời: từ khi mẹ mang nặng đẻ đau, đỡ đần con khi con mới chập chững biết đi, cùng con đi từng bước trên đường đời. Cuộc đời của một đứa trẻ cũng là một cuốn nhật ký của mẹ.
Đó là một tình cảm thật cao quý: mẹ là người luôn bao dung ta trong mọi hoàn cảnh, là nơi cho ta nương tựa mỗi khi vấp ngã, là nơi ta gửi gắm những điều thầm kín, là nguồn động lực giúp ta vững vàng vươn lên trong cơn bão.
Tình mẹ cũng là một tình cảm tự nhiên và có trách nhiệm (có thật)
Tình mẹ bắt nguồn sâu xa từ lòng nhân ái – truyền thống đạo lý ngàn đời của dân tộc ta (ví dụ)
– Nếu được sống trong tình mẫu tử thì con người sẽ hạnh phúc vô cùng, nhưng nếu thiếu tình mẫu tử thì con người sẽ thiệt thòi, bất hạnh (ví dụ).
– Tình mẹ có thể soi sáng con đường cho mỗi người, giúp con người tỉnh ngộ khi lạc lối, sống tốt hơn, sống có trách nhiệm hơn.
– Phê phán những việc làm trái với đạo lí: mẹ bỏ con, con đối xử tệ bạc với mẹ, ruồng bỏ mẹ.
* Trách nhiệm của mỗi người trước thiên chức làm mẹ:
– Tình mẹ là một tình cảm vô cùng bao la, rộng lớn và vĩ đại, người mẹ đã hi sinh cả cuộc đời mình cho đứa con của mình. Vì vậy, trẻ cần phải biết trân trọng những tình cảm đó và sống sao cho xứng đáng với những tình cảm đó.
– Không ngừng nỗ lực học tập, tu dưỡng đạo đức, trở thành người có ích cho xã hội để đền đáp tình cảm cao quý mà mẹ đã dành cho ta. Vì điều mà người mẹ nào cũng mong muốn là con mình khôn lớn.
– Không được có những hành động trái với đạo hiếu như: vô lễ, bất kính với mẹ, đối xử tệ bạc với mẹ, thậm chí dùng bạo lực, bỏ rơi mẹ. Đây là một tội ác không thể tha thứ.
c. Kết thúc vấn đề:
Tình mẹ là tình cảm thiêng liêng và cao quý nhất đối với mỗi người. Cần phải trân trọng tình cảm ấy, phải sống sao cho xứng đáng với công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Như lời Phật dạy: “Ai còn mẹ, xin đừng làm mẹ khóc”.
2. Bộ đề đọc hiểu Vợ nhặt chuẩn nhất:
2.1. Đề bài:
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn. Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bài lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay đầu lại nhìn con tỏ ý không hiểu.
Tràng tươi cười:
– Thì u hẵng vào ngồi lên giường lên giếc chĩnh chện cái đã nào.
Bà lão lập cập bước vào. Người đàn bà tưởng bà lão già cả, điếc lác, thị cất tiếng chào lần nữa:
– U đã về ạ!
Ô hay, thế là thế nào nhỉ? Bà lão băn khoăn ngồi xuống giường. Tràng nhắc mẹ:
– Kìa nhà tôi nó chào u.
Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp:
– Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả…
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.
Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
– Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
– Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa những dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?…
– Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.
Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật:
– Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…
Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. (Trích Vợ nhặt – Kim Lân -Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2008, tr. 28-29)
Câu 1. Đoạn trích trên được trích từ truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Giới thiệu vài nét về xuất xứ tác phẩm.
Câu 2. Nêu chủ đề của đoạn trích.
Câu 3. Nêu giọng điệu trần thuật của tác giả trong phần đoạn trích in đậm.
Câu 4. Theo anh/chị, vì sao bà cụ Tứ lại nói với các con của mình là Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng… thay vì … u cũng bằng lòng?
Câu 5. Việc bà cụ Tứ không phản đối chuyện Tràng dẫn một ngƣời đàn bà xa lạ về làm vợ giữa lúc cái đói đang hoành hành dữ dội, đẩy con ngƣời đến cận kề bờ vực của cái chết thể hiện vẻ đẹp gì trong tâm hồn ngƣời mẹ?
Câu 6: Nêu cảm nhận của anh/chị về thái độ, tình cảm của tác giả đối với nhân vật bà cụ Tứ.
2.2. Đáp án:
Câu 1: Xuất xứ truyện ngắn Vợ nhặt: Truyện có trước tiểu thuyết Xóm ngụ cư, được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, lấy bối cảnh nạn đói năm Ất Dậu (1945) nhưng bị dở dang và bản thảo bị thất lạc. Mãi đến sau hòa bình lập lại (1954), Kim Lân mới viết truyện ngắn này dựa trên một phần cốt truyện cũ.
Câu 2: Chủ đề của đoạn trích là: Tâm trạng của bà cụ Tứ khi nghe tin Tràng có vợ.
Câu 3: Giọng trần thuật của tác giả trong đoạn trích in đậm là: Đoạn in đậm sử dụng lối kể nửa trực tiếp: lời kể của tác giả đan xen với dòng suy nghĩ của nhân vật, xen kẽ giữa lời kể của tác giả với lời trần thuật của tác giả. Ở đây, lời tự sự của Kim Lân đã hòa vào dòng suy nghĩ của bà cụ Tứ, thể hiện một cách chân thực, sinh động và sâu sắc sự ngạc nhiên của bà cụ khi thấy trong nhà có một người đàn bà lạ gọi tên mình.
Câu 4:
Thay vì “hài lòng”, bà lão nói “mừng lòng”. Niềm vui vừa là sự sẵn sàng chấp nhận, vừa là sự vui vẻ, độ lượng của bà lão.
Câu 5: Việc cụ Tứ không phản đối chuyện Tràng lấy một người đàn bà xa lạ làm vợ giữa nạn đói hoành hành, đẩy nhân dân đến bờ vực của cái chết, thể hiện lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ.
Câu 6: Thái độ của nhà văn đối với nhân vật bà Tứ được thể hiện rõ nét trong cách đặt tên cho nhân vật và trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Nhà văn luôn gọi nhân vật là bà lão, người mẹ nghèo và luôn đi sâu vào suy nghĩ của nhân vật để bộc lộ tâm trạng, tình cảm của nhân vật. Tất cả những điều đó thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm và thái độ trân trọng của nhà văn đối với nhân vật.
3. Bộ đề đọc hiểu Vợ nhặt chính xác nhất:
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt sáng lên lấp lánh. Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem. Sợ chúng nó đùa như ngày trước, Tràng
vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng. Mấy đứa trẻ đứng dừng lại, nhìn Tràng, đột nhiên có đứa gào lên:
– Anh Tràng ơi! – Tràng quay đầu lại. Nó lại cong cổ gào lên lần nữa – Chông vợ hài.
Tràng bật cười:
– Bố ranh!
Người đàn bà có vẻ khó chịu lắm. Thị nhíu đôi lông mày lại, đưa tay lên xóc xóc lại tà áo. Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết.
Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ lắm. Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Hình như họ cũng hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ. Một người thở dài. Người khác khẽ thì thầm hỏi:
– Ai đấy nhỉ?… Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên?
– Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.
– Quái nhỉ?
Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc.
– Hay là vợ anh cu Tràng? Ừ, khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để.
– Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?
Họ cùng nín lặng.
Người đàn bà như cũng biết xung quanh người ta đang nhìn dồn cả về phía mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Hắn cũng biết thế, nhưng hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình. (Trích Vợ nhặt – Kim Lân – Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2008, tr.24)
Câu 1. Giới thiệu vài nét về tác giả Kim Lân.
Câu 2. Đoạn trích ít nhiều đã phản ánh hiện thực khốc liệt của nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu, 1945 ở nước ta. Anh/chị biết gì về nạn đói này?
Câu 3. Việc lặp đi lặp lại chi tiết người bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma có ý nghĩa gì?
Câu 4. Trước sự kiện anh cu Tràng “nhặt” được vợ, những người dân ở xóm ngụ cư đã tỏ thái độ ra sao?
Câu 5. Phân tích chi tiết Sợ chúng nó (mấy đứa trẻ con ở xóm ngụ cư) đùa như ngày trước, Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng.
Câu 6. Từ những chi tiết Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn., thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia, hãy nhận xét về nhân vật người “vợ nhặt”.
Trả lời:
Câu 1: Đôi nét về tác giả Kim Lân: Kim Lân (1920 – 2007) là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, thường viết về nông thôn và nông dân.
Truyện của Kim Lân hấp dẫn người đọc bởi những trang viết đặc sắc về phong tục, đời sống làng quê, bởi sự am hiểu sâu sắc về hoàn cảnh, tâm lý của dân làng. Năm 2001, Kim Lân được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.
Câu 2: Đoạn văn ít nhiều phản ánh hiện thực khốc liệt của nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945 ở nước ta. Nạn đói năm Ất Dậu 1945 đã làm cho hơn hai triệu đồng bào ta từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ chết đói. Nguyên nhân chính của nạn đói này là do sự bóc lột, cướp bóc, dã man của bọn thực dân, phát xít đối với đồng bào ta để phục vụ cho chiến tranh Đông Dương.
Câu 3: Việc lặp lại chi tiết dòng người cõng nhau kéo lên như bóng ma, bóng người đói lả đi như bóng ma có tác dụng làm nổi bật bi kịch đến cùng của những con người trong nạn đói: kẻ sống và kẻ chết, ranh giới giữa sự sống và cái chết mong manh như sợi tóc.
Câu 4
Trước sự việc anh Tràng “nhặt” được vợ, bà con lối xóm tỏ rõ thái độ, tình cảm:
– Lúc đầu, họ cảm thấy phấn chấn, sung sướng: Những khuôn mặt hốc hác, đen sạm của họ bỗng bừng sáng. Một cái gì đó lạ lùng và mới mẻ thổi vào cuộc sống đói khổ, tăm tối của họ.
Câu 5: Chi tiết Sợ chúng (bọn trẻ hàng xóm) đùa giỡn như trước, Tràng vội làm mặt nghiêm lại, lắc đầu ra hiệu không đồng ý cho thấy Tràng hoàn toàn nghiêm túc trong việc đưa người phụ nữ bên ngoại về làm vợ. Tràng sợ đám trẻ con hàng xóm chơi đùa với mình như thường ngày sẽ đem chuyện “làm ăn lớn” của Tràng ra làm trò cười, khiến người phụ nữ ở bên ngượng ngùng hay suy nghĩ.
Câu 6:
Chi tiết Thị đang ôm chiếc thúng nhỏ, đầu hơi cúi, chiếc nón tả tơi nghiêng che nửa khuôn mặt. Thị có vẻ rụt rè nhút nhát, thị càng lúng túng càng bước chân vào người khác, chứng tỏ nhân vật “vợ nhặt” đã ý thức rất sâu sắc về thân phận của mình.