Vợ nhặt – Kim Lân và “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là những tác phẩm khá tiêu biểu viết về đề tài nông dân. Hai tác phẩm của hai tác giả tưởng như hoàn toàn khác nhau lại gặp nhau ở một chi tiết, đó là chi tiết “nước mắt”. .Qua so sánh dòng nước mắt trong hai tác phẩm ta thấy được tình người, tình mẹ con và chi tiết “nước mắt” là một phương tiện biểu đạt rất tiện lợi. Bài viết sau đây là nội dung chi tiết các bạn cùng tham khảo nhé!
1. Dàn ý so sánh chi tiết nước mắt trong Vợ nhặt và Chiếc thuyền ngoài xa chi tiết nhất
1.1. Mở bài:
Về nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Vợ vắng Nhà văn Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
Hai nhà văn đều thể hiện tư tưởng nhân đạo, nhân văn trong sự nghiệp văn hóa
Hai tác phẩm đều khắc họa tình người, tình mẫu tử, trong đó chi tiết “nước mắt” là phương tiện biểu đạt.
1.2. Thân bài:
a) Cảm nhận chi tiết “nước mắt” trong Vợ Chồng Son:
– Giới thiệu dẫn đến chi tiết
– Miêu tả hoàn cảnh xuất hiện giọt nước mắt của bà cụ Tứ – mẹ Tràng: lãng phí chuyện ông Tràng kén vợ, tâm trạng của bà Tú
– Cảm nhận, phân tích chi tiết “nước mắt”:
– Đó là biểu hiện của nỗi đau, nỗi buồn: con lấy chồng giữa một ngày đói khát, bà lão vừa mừng, vừa ẵm, vừa lo…
– Nước mắt chỉ “rò rỉ” ra một cách lạ lùng bởi cả đời mẹ đã khô cạn trong những tháng năm khổ cực…
– “Con mắt chảy máu” là biểu hiện chân dung khổ hạnh của một bà lão nông dân, là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con đau lòng
Đánh giá:
– Giá trị nội dung: Dòng nước mắt thể hiện giá trị thực tiễn và giá trị nhân đạo sâu sắc:
– Hiện thực: phơi bày thực trạng xã hội những năm trước cách mạng, trong nạn đói 1945
– Nhân đạo: cảm thông cảm thông; tố cáo xã hội; chăm sóc vẻ đẹp tâm hồn người mẹ
– Thông số kỹ thuật: chi tiết nhỏ nhưng ý nghĩa truyền tải lớn; miêu tả nội tâm nhân vật đặc sắc.
b) Cảm nhận chi tiết “dòng nước mắt” trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa:
– Giới thiệu dẫn đến chi tiết
– Hoàn cảnh xuất hiện giọt nước mắt của người dân nghèo: câu chuyện về gia đình người đánh cá, hoàn cảnh tâm trạng của người nghèo
Cảm nhận, phân tích chi tiết “nước mắt”:
– Đó là biểu hiện của sự day dứt: nghèo đói, bế tắc -> bạo lực gia đình không lối thoát → câu chuyện đứa con trai phạm tội trái đạo đức mà không hóa giải được, lặng lẽ lo lắng cho sự phát triển lệch lạc về nhân cách của con mình chưa tìm ra hướng giải quyết…
– Đó là biểu hiện của tình mẫu tử, nghĩa chồng: thương con thì đau lòng, khi bị đánh cũng không có phản ứng gì lạ, nhưng hành động của kẻ lừa đảo khiến chị em như tỉnh táo, như bị một viên đạn xuyên tim. Linh hồn để nhận ra nỗi đau cuối cùng
Đánh giá:
– Giá trị nội dung: Dòng nước mắt tiêu biểu cho giá trị thực tiễn và giá trị nhân đạo sâu sắc:
– Hiện thực: phản ánh thực trạng xã hội những năm sau chiến tranh và trước đổi mới 1986
– Nhân loại: cảm thông cảm thông; Chăm sóc vẻ đẹp tâm hồn người mẹ
– Thông số kỹ thuật: chi tiết nhỏ nhưng truyền tải ý nghĩa lớn; miêu tả nội tâm nhân vật.
c) So sánh:
Về nội dung:
– Lời cảnh cáo là lời tâm sự xác đáng của một người phụ nữ, của một người mẹ trong hoàn cảnh nghèo khổ, khốn khổ
– Mũi tên là “viên ngọc quý của con người”, hóa dòng nước đầy tình người chảy ra từ tâm hồn của những người mẹ nhân hậu, vị tha, hi sinh.
– Góc độ chú ý đến phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm: phản ánh ánh sáng hiện thực xã hội của thời đại; bày tỏ niềm thương cảm trước bi kịch của con người và sự trân trọng trước vẻ đẹp của cuộc đời và con người tác giả.
– Về nghệ thuật: Ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, sâu sắc của hai nhà văn qua việc chọn lọc những chi tiết đặc sắc.
Điểm khác biệt
Về nội dung: Hoàn cảnh cá nhân của hai nhân vật khác nhau – nước mắt cũng có cảm xúc riêng
– Chi tiết giọt nước mắt của bà cụ Tứ gắn với cảnh anh Tràng “nhặt” vợ; Bà lão cảm thấy uất ức, thương xót cho số phận của con trai mình và thương hại cho chính mình. Tiến về phía trước là ánh sáng của hạnh phúc nhóm
– Còn giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài, sau sự kiện anh Phác chống cha bảo vệ mẹ và hoàn cảnh éo le, khốn khó của gia đình chị diễn ra trước mắt nhiếp ảnh gia Phùng; Người phụ nữ vùng biển này cảm thấy đau đớn, tủi nhục vì không giấu được bi kịch gia đình, vì thương con, tủi thân. Chị gái trước mặt là màu xám và bị mắc kẹt
– Về nghệ thuật thể hiện: Để khắc họa cụ thể dòng nước mắt, Kim Lân sử dụng hình thức biểu đạt giản dị, trực tiếp, Nguyễn Minh Châu sử dụng nghệ thuật so sánh, hình ảnh.
đ) Giải thích:
– Tại sao chúng lại giống nhau? Giống nhau về nội dung vì cùng chí hướng:
– Từ nỗi đau -> đề xuất giải pháp cách mạng
– Từ vẻ đẹp tâm hồn -> ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống -> bằng bút pháp hiện thực, nhân đạo sâu sắc
– Còn lý do nào nữa không?
– Hoàn cảnh khác, tương lai khác được viết trong những ngữ cảnh khác nhau (KL sau CM thành công nhìn lại viết với cảm xúc lạc quan; NMC nhìn hiện tại nên không chắc tương lai) – PCNT mỗi tác giả mỗi khác. pha trộn
1.3. Kết luận:
Thử thách vấn đề: vẻ đẹp và sức mạnh của nước mắt người mẹ.
Xóa giá trị tác phẩm và vị trí của tác phẩm giả mạo trên nền tảng.
2. So sánh chi tiết nước mắt trong Vợ nhặt và Chiếc thuyền ngoài xa hay nhất:
Trong vô số tác phẩm văn học Việt Nam, đề tài người nông dân và người mẹ trong hoàn cảnh khó khăn, nghèo khổ vẫn được sử dụng với số lượng lớn. Và “Vợ bùm” – Kim Lân và “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là những tác phẩm khá tiêu biểu của đề tài đó. Hai tác phẩm của hai tác giả tưởng như hoàn toàn khác nhau lại gặp nhau ở một chi tiết, đó là chi tiết
“Rớt nước mắt” “Ôi, người ta lấy chồng vì con, ở nhà nuôi con thì làm sao mong có con sau này mở rộng tầm mắt. Còn tôi… Trong đôi mắt hiền của mẹ tôi hai hàng lệ rơi” (Kim Lân) và “Thằng bé cho đến bây giờ vẫn là thằng hề, như viên đạn bắn vào đàn ông Giờ xuyên qua hồn đàn bà. người đàn bà, làm cho nhà cai lệ rơi lệ” (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu)
Cả hai nhà văn đều thể hiện tư tưởng nhân đạo, nhân văn, đó cũng là điểm sáng trong sự nghiệp văn chương của cả hai tác giả. Cả hai tác phẩm đều khắc họa tình người, tình mẹ con và lấy chi tiết “nước mắt” làm phương tiện biểu đạt.
Vợ Nhặt là trang viết mà Kim Lân kể về thân phận và cuộc sống của những người nông dân nghèo trước cách mạng. Bà cụ Tứ là mẹ già và đứa con trai duy nhất của bà là Trang. Gia đình cô cũng có nhiều gia đình khác nhau ở thời kỳ cuối cùng, nào là nghèo đói và túng thiếu đến cùng cực. Chính vì vậy mà trong cảnh đó, cậu con trai ngây thơ của chị đã “yêu” một người vợ. Lúc đầu cô ngạc nhiên, ngạc nhiên, sau đó là bất ngờ. Nhưng khi nghe con trai giới thiệu “Nhà chú vào làm anh chị em” thì bà “chợt hiểu ra bao nhiêu chuyện đang xảy ra”. Và rồi trong một suy nghĩ bâng quơ vì tuổi tác bà cụ Tứ thốt lên: “Ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con thì ăn cơm nhà lành, chứ mong có con mà mở mang. mắt sau. Còn tôi… Trong đôi mắt hiền từ của bà, hai dòng nước mắt chảy dài.” “Cùng nhau chảy nước mắt” là biểu hiện của sự đau khổ, ân hận: đứa con lấy chồng giữa buổi đói khổ khiến bà lão vừa mừng vừa buồn và trên hết là lo lắng. Bà Tư đã ở cái tuổi gần đất xa trời, cuộc sống cơ cực, chồng con lần lượt qua đời, chỉ còn lại mẹ con bà tần tảo nuôi nhau qua ngày. Con trai bà háo hức lập gia đình, tâm nguyện duy nhất của bà là mong xây dựng gia đình cho các con. Mong ước thật giản đơn nhưng sao quá xa vời khi cái nghèo cứ bủa vây cuộc sống, thực tế “chết đói như rơm rạ” khiến chị chạnh lòng thậm chí nghĩ đến hi vọng. Sau bao ngày tháng đau khổ của cuộc đời, như bà cụ Tứ đang tận hưởng sự bất hạnh trong thực tại đau buồn của nạn đói năm 1945. Thế nên bỗng nhiên con trai bà – em Tràng trở về với một người phụ nữ, không nghi lễ, không câu nệ, nhưng với hai đứa con đáng thương nên thành vợ thành chồng. Bà Tư hoang mang. Mừng vì “người ta đến bước khó khăn này thì mới lấy vợ cho con, chỉ con mình mới lấy được vợ”, nhưng chị mừng rồi lại tủi thân, bởi “người ta xây vợ xinh cho con, đã đến lúc phải ở nhà ăn cơm, để chúng nó làm, còn mình…”, giá như bà cụ làm được “vài mâm” thì có nỗi tủi hờn vơi đi phần nào, nhưng trong cơn đói và khát của thời điểm này, nó thực sự là quá nhiều. sang trọng, xa hoa. Và câu nói bao trùm là sự lắng nghe của mẹ “chúng nó có nuôi nhau được không, cuộc sống của chúng nó khá hơn cuộc sống của vợ chồng tôi trước đây”. Giữa những cảm xúc ngổn ngang ấy, “đôi mắt bà lão nhòe đi những giọt nước mắt”.
Tác giả để những giọt nước mắt ấy “đi tìm” một cách lạ lùng bởi cả cuộc đời với bao năm tháng khổ cực như bà cụ đã cạn nước mắt rồi. Nguyễn Khuyến trong Khóc Dương Khuê cũng từng viết “Tuổi già nước mắt như sương/Chậm ép hai hàng chứa chan” hay Nam Cao khi tả giọt nước mắt Lão Hạc “Nếp nhăn xô nhau, gượng nước mắt chảy xuôi”. Những năm tháng cuộc đời với bao cay đắng nhặt nhạnh họ dù đau khổ nhưng cũng đã cạn khô nước mắt, chai lì với đời nên những giọt nước mắt chỉ là “rò rỉ” hiếm hoi. Kim Lân đã để chân dung cụ Tứ hiện lên qua chi tiết “đôi mắt rưng rưng” – một bức chân dung đầy khổ hạnh của một lão nông. Những giọt nước mắt của bà Tứ không chỉ là biểu hiện của nỗi buồn, sự đau khổ, lặng lẽ. buồn mà còn là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng, vui hay buồn hay lo cũng xuất phát từ tấm lòng yêu thương con, từ tấm lòng nhân hậu của người mẹ. Có thể nói, chi tiết “dòng lệ” đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Chỉ “nước mắt” của bà Tú mà ta thấy được bối cảnh xã hội những năm trước cách mạng, trong nạn đói 1994 5. Đặc biệt, đó còn là sự đồng cảm, xót thương cho những người nông dân nghèo khổ, một lời tố cáo xã hội, một tố cáo giai cấp thống trị đã đàn áp nhân dân. Nhưng đặc biệt nhân văn ở đây là sự ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn người mẹ mà Kim Lân đã đặt nhiều tâm huyết vào ngòi bút của mình. Chi tiết “giọt nước mắt” cũng có giá trị nghệ thuật đặc sắc. Dù chỉ là một chi tiết nhỏ nhưng nội dung có ý nghĩa truyền tải rất lớn, miêu tả chân thực và sinh động nội tâm nhân vật.
Về nguyên nhân vì sao trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu lại có sự xuất hiện của “Những giọt nước mắt”. Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm nói về cuộc sống của người dân thời hậu cách mạng, một thời kỳ đen tối và khó khăn. Phùng – một nghệ sĩ luôn đi tìm cái đẹp, vô tình bắt gặp rồi mê đắm hình ảnh con đò mờ ảo hiện ra trên sông. Nhưng anh đâu biết rằng, đằng sau đó là bi kịch đầy bạo lực của một gia đình. Hàng ngày, người đàn bà hàng chài phải chịu đựng những trận đòn roi của người chồng – người đang phải gồng gánh gánh nặng nuôi gia đình 9, 10 đứa con trong thực cảnh nghèo khó. Sau đó, anh Phác, con trai chị lao vào đánh chính bố mình để bảo vệ mẹ rồi lãnh hai cái tát ngã lăn ra bãi cát. bắn vào người đàn ông và giờ đây đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, khiến cho những giọt nước mắt tuôn rơi.” Nếu chi tiết “nước mắt” của bà cụ Tứ là biểu hiện của sự đau khổ, xót xa, xót xa thì “những giọt nước mắt” của người phụ nữ trong từng chiếc lọ là biểu hiện của nỗi đau khi hoàn cảnh gia đình bế tắc, nhà nghèo, thuyền chật, thuyền lại đông chín người con khiến khó khăn chồng chất, lượng cá đánh bắt vẫn vậy mà nhu cầu ngày càng tăng, con cái ngày càng lớn khiến gia đình người đàn bà hàng chài càng thêm rối ren, bế tắc, khiến người chồng phải tìm cách giải tỏa nhưng giải tỏa bằng cách đánh vợ, bằng bạo lực gia đình, bằng bạo lực. không có lối thoát, không bao giờ có thể kết thúc vì chỉ khi gia đình anh ấy ra tay. Nếu bạn nghèo, bạn sẽ tự tìm lối thoát cho mình để mong thoát khỏi hoàn cảnh đó. Nhưng liệu điều đó có xảy ra khi cái nghèo ngày càng gia tăng, cảnh bạo hành ngày càng nghiêm trọng hơn đối với họ. tội ác của đứa con trai và nỗi lo của người phụ nữ trước sự phát triển lệch lạc về nhân cách của những đứa trẻ đáng thương khi thường xuyên phải chứng kiến cảnh cha mẹ đánh đập mẹ mình không thương tiếc. Và “dòng nước mắt xuôi” một lần nữa là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng. Bà khóc vì thương con. Khi bị đánh, cô không có phản ứng gì, không bỏ chạy, không chống trả, chỉ đứng yên chịu đòn, cam chịu đến nỗi trong mắt Phùng và Đẩu, sự cam chịu đó bắt nguồn từ sự thất học. bạn đang yêu bóng tối. Nhưng trước hành động của cậu con trai, lao vào bố như một viên đạn và đánh bố để rồi nhận hai cái tát tai của bố rồi ngã xuống cát, chị như bừng tỉnh. Hành động của người con trai như một viên đạn xuyên qua tâm hồn người phụ nữ để đánh thức nỗi đau tận cùng. Bà khóc, bà khóc, lạy các con rồi ra đi… Đau khổ vô cùng! Cô không chỉ cảm thấy có lỗi với con trai mình, có lỗi với anh ta, mà còn cảm thấy có lỗi với anh ta. Tôi là một người mẹ, nhưng tôi không phải là người che chắn, bảo vệ con mình, cho chúng một tuổi thơ trong trẻo và bình yên. Cảnh bạo lực gia đình dã man đã ăn sâu vào ký ức hàng ngày của các em, cảnh cha mẹ bất hòa đã làm xáo trộn suy nghĩ, nhận thức và hành động của những đứa trẻ tội nghiệp. Cô thừa nhận lỗi của mình khi không thể nuôi dạy con tốt. Ai bảo khi lớn lên sẽ không trở thành hung thần hung ác, ác ma còn đáng sợ hơn những gì nó tuyên bố. Chỉ một chi tiết “nước mắt” mà hàm chứa ý nghĩa lớn lao, giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc về nội tâm nhân vật, đồng thời có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Nó thể hiện bối cảnh xã hội của những năm sau chiến tranh và trước thềm đổi mới năm 1986. Một hiện thực đau khổ vì đói nghèo, bệnh tật vì bóng tối, vì bạo lực…
Hoàn cảnh riêng của hai nhân vật khác nhau nên giọt nước mắt cũng mang nỗi buồn riêng. Chi tiết giọt nước mắt của bà cụ Tứ gắn liền với việc Tràng “nhặt” vợ, mặc dù bà lão cảm thấy uất ức, thương hại cho số phận đứa con và cũng xót thương cho chính cuộc đời mình. nhưng phía trước bà lão là ánh sáng của hạnh phúc vừa nhen nhóm. “Nước mắt” của người đàn bà hàng chài kể từ sau sự kiện anh Phác chống cha để bảo vệ mẹ và hoàn cảnh bất hạnh, éo le của gia đình chị diễn ra trước mắt nghệ sĩ Phùng. Cô chạnh lòng, ngậm ngùi vì không giấu nổi bi kịch gia đình, vì thương con, lo lắng cho con. Đáng tiếc, trước mặt cô là một màu xám đen, bế tắc. Để khắc họa chi tiết “những giọt nước mắt”, Kim Lân sử dụng lối diễn đạt giản dị, trực tiếp thì Nguyễn Minh Châu sử dụng lối nói so sánh, hình ảnh.
Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều gặp nhau ở điểm chung là đều hướng đến đề xuất một giải pháp cách mạng từ nỗi đau của nhân vật và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Cùng là nhà văn nhân đạo và nhận thức sâu sắc. Nhưng hoàn cảnh và tương lai khác nhau do các chi tiết được tạo ra trong các cảnh khác nhau. Kim Lân viết sau khi cách mạng thành công viết rằng Nguyễn Minh Châu lạc quan về hiện tại, ông không nhìn thấy chắc chắn tương lai có tốt đẹp hơn cho người đàn bà hàng chài nghèo hay không. Đồng thời cách viết của mỗi tác giả luôn có sự khác biệt không lẫn vào đâu được. Vậy là cùng một chi tiết rơi nước mắt, nhưng mỗi khi ngừng viết, tôi lại có cách tiếp cận riêng, tạo ấn tượng riêng với người đọc.
Chi tiết “dòng nước mắt” trong hai tác phẩm Ngược Vợ của Kim Lân và Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu đều thành công cả về nội dung và nghệ thuật. Tất cả mang đến những màu sắc khác nhau để người đọc nhìn vào văn học, đến hiện thực, đến những giá trị nhân văn bằng nhiều ô cửa khác nhau.
3. Vài nét về nghệ thuật của chi tiết nước mắt trong Vợ nhặt và Chiếc thuyền ngoài xa:
Con mắt nhân đạo của Nguyễn Minh Châu được thể hiện qua sự cảm thông, xót thương cho số phận người đàn bà hàng chài cũng như bao người phụ nữ đáng thương, đáng thương trong xã hội đương thời. Bên cạnh đó, ông còn dùng ngòi bút của mình để nói lên những lời nâng niu, chiều chuộng vẻ đẹp tâm hồn người mẹ. Trong nỗi buồn, mẹ vẫn cam chịu, vẫn nhẫn nhịn, chấp nhận đánh đập để chồng bớt đi phần nào áp lực của cuộc sống thiếu thốn, rồi lại tiếp tục cùng mẹ gánh vác gia đình, nuôi con khôn lớn. phát triển. khiếm khuyết lớn.
Chi tiết “nước mắt” của cả hai tác phẩm đều có điểm chung. Đó là tất cả những giọt nước mắt của một người phụ nữ, của một người mẹ trong cảnh nghèo khó, vất vả, là “hạt ngọc nhân gian”, là dòng nước chan chứa tình người chảy ra từ trái tim của những người đang sống trong cảnh nghèo khó. người mẹ tốt bụng và bao dung. , đức hy sinh. Ngoài ra, hai chi tiết góp phần thể hiện giá trị nội dung và nhân đạo của tác phẩm: phản ánh hiện thực xã hội ở các thời đại, bày tỏ niềm thương cảm trước con người và bi kịch của con người. Sự trân trọng vẻ đẹp của cuộc sống và con người của tác giả cho thấy ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, sâu sắc của hai nhà văn qua việc chọn lọc những chi tiết đặc sắc.