Giao dịch dân sự là các giao dịch diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, giữa những con người với nhau. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể tham gia các giao dịch này. Để tham gia các giao dịch dân sự, thì cần phải có năng lực hành vi dân sự trọn vẹn. Vậy người có năng lực hành vi dân sự trọn vẹn là người thế nào? Hãy cùng LVN Group tìm hiểu qua bài viết sau đây nhé!
Văn bản hướng dẫn
Bộ Luật dân sự 2015
Năng lực hành vi dân sự là gì?
Theo quy định của tại Điều 19 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân là các khả năng của một người nhằm xác lập các quan hệ dân sự, các giao dịch dân sự nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình thông qua các hành vi của mình đối với người khác nhằm chuyển dịch các quyền sở hữu, chiếm hữu một cách hợp pháp.
Trừ trường hợp một người không có đủ năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người đó bị khó khăn về nhận thức mà không điều khiển được các hành vi của mình gây ra thì pháp luật dân sự đã quy định mọi người khi đủ 18 tuổi trở lên đều là những người có trọn vẹn năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm với các hành vi do mình xác lập thực hiện.
Các mức độ năng lực hành vi dân sự
Các quy định của pháp luật hiện nay khi phân biệt các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân sẽ dựa vào khả năng nhận thức của cá nhân đó, khả năng điều khiển hành vi của cá nhân và các hậu quả của các hành vi đó về cơ bản dựa trên yếu tố độ tuổi, ngoài ra, trong một số trường hợp là dựa vào những yếu tố khác của mỗi cá nhân, năng lực hành vi dân sự của cá nhân được chia thành các mức độ khác nhau giữa các cá nhân khác nhau cụ thể như sau:
Mức độ thứ nhất là những người không có năng lực hành vi dân sự.
Pháp luật đã quy định rất rõ là người chưa thành niên là những người có độ tuổi dưới 18 và hiện nay các giao dịch dân sự nhất là người không có năng lực hành vi dân sự đối với người chưa đủ sáu tuổi đều do người uỷ quyền xác lập thay người chưa thành niên thực hiện và chịu trách nhiệm trách pháp luật khi có tổn hại do người chưa thành niên gây ra.
Mức độ thứ hai là những người có trọn vẹn năng lực hành vi dân sự
Những người từ đủ từ mười tám tuổi trở lên đều là những người có năng lực hành vi dân sự trọn vẹn, nếu không thuộc các trường hợp của pháp luật quy định khi có quyết định của tòa án về việc họ bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự mà tự mình không thể thực hiện giao dịch dân sự.
Mức độ thứ ba là những người có năng lực hành vi dân sự một phần
Những người thuộc độ tuổi từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi đã bắt đầu có một phần năng lực hành vi dân sự. Những người này đã có thể bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trong một số trường hợp như việc mua các đồ dùng học tập, đồ dùng sinh hoạt hàng ngày vở viết, đồ ăn vặt không có giá trị lớn như kẹo bánh, sách vở, bút viết và những giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc trong những trường hợp khác do pháp luật quy định thì những người này có thể tự mình xác lập, thực hiện bằng hành vi của mình. Tuy nhiên, trong những trường hợp còn lại, họ chưa được quyền tự mình tham gia. Về cơ bản, hầu hết các giao dịch dân sự của những người này đều phải được người uỷ quyền theo pháp luật đồng ý.
Mức độ thứ tư là những người mất năng lực hành vi dân sự
Sau khi một người có các dấu hiệu rối loạn về nhận thức và không thể điều khiển các hành vi của mình gây ra có thể ảnh hưởng đến các hành vi, suy nghĩ của cá nhân này có thể gây ra các tổn hại lớn về tài sản, sức khỏe, tính mạng gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự, phát triển kinh tế thì theo yêu cầu của người uỷ quyền hoặc những người có quyền và lợi ích liên quan thì sau khi có kết luận của đơn vị giám định pháp y tâm thần mà trên cơ sở đó thì tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự. Sau khi người này bị tòa án tuyên là người đó bị mất năng lực hành vi dân sự thì họ không thể xác lập thực hiện các giao dịch dân sự của mình phải thông qua người uỷ quyền hợp pháp theo hướng dẫn của pháp luật thực hiện thay.
Nếu những người này đã khôi phục năng lực hành vi dân sự thì có thể yêu cầu tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định trước đó đã tuyên là người đó bị mất năng lực hành vi dân sự khi không còn căn cứ nào nữa để tuyên người đó bị mất năng lực hành vi dân sự theo hướng dẫn của pháp luật.
Mức độ thứ năm là những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
Thông thường những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là những người có trọn vẹn năng lực hành vi dân sự nhưng họ tự hạn chế năng lực hành vi dân sự của mình như là do họ nghiện ma túy đá, thuốc lắc, heroin, nghiện các chất kích thích như rượu, bia…dẫn đến phá tán tài sản của gia đình.
Tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự sau khi có đơn yêu cầu tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự của những người có quyền và lợi ích có liên quan, người uỷ quyền hợp pháp của họ đối với những người nghiện các chất ma túy, các chất kích thích không thể làm chủ và điều khiển được hành vi của mình dẫn đến việc gây ra các tổn hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác do những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự gây ra.
Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì họ tự hạn chế năng lực hành vi dân sự của mình mà họ không bị mất hết năng lực hành vi dân sự nên họ vẫn có thể tự mình tham gia được một số giao dịch dân sự nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của họ như mua quần áo, mua đồ ăn…
Mức độ thứ sáu là những người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Thông thường những người đã thành niên do tình trạng thể chất như là những người cao tuổi hoặc về mặt tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức và điều khiển để làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức trầm trọng như bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự ví dụ như những người bị mắc rối loạn tâm thần nhẹ, bệnh đao, bệnh tơcnơ…thì sau khi những người đại điện hợp pháp hoặc những người có quyền và lợi ích liên quan yêu cầu đưa những người này đi giám định pháp y tâm thần đưa ra tòa án để ra quyết định tuyên bố những người này là người có khó khăn trong nhận thức không, làm chủ được hành vi và xác định, chỉ định và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ để xác lập các giao dịch dân sự có liên quan đến những người này.
Những người sau khi bị tòa án tuyên bố họ là những người có khó khăn về nhận thức, làm chủ hành vi của mình thì theo yêu cầu của chính họ hoặc những người có liên quan có quyền yêu cầu tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo hướng dẫn của pháp luật.
Việc pháp luật quy định về năng lực hành vi dân sự sẽ giúp những đơn vị, tổ chức, xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của những người mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm trước những hành vi của họ gây ra. Vì vậy, sẽ tránh được những hậu quả pháp lý bất lợi cho các cá nhân có liên quan đến những người bị mất hoặc hạn chế năng lưcụ hành vi dân sự nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của các bên có liên quan.
Người có năng lực hành vi dân sự trọn vẹn là người thế nào?
Những người có năng lực hành vi dân sự trọn vẹn: Là những người từ đủ 18 tuổi trở lên ( Trừ các trường hợp mất năng lực hành vi dân sự – Điều 22 BLDS và các trường hợp bị hạn chế năng lực hành vi dân sự – Điều 23 BLDS)
Theo các quy định trên, trừ trường hợp mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong làm chủ nhận thức, hành vi thì người trên 18 tuổi là người có trọn vẹn năng lực hành vi dân sự và phải chịu trách nhiệm với hành vi của mình.
Bài viết có liên quan
- Vai trò của LVN Group trong tố tụng dân sự
- Quy định về sao chụp hồ sơ vụ án dân sự
- Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
- Bản án dân sự có yếu tố nước ngoài
- Nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự
Liên hệ ngay
Trên đây là nội dung tư vấn của LVN Group về vấn đề “Người có năng lực hành vi dân sự trọn vẹn là người thế nào?”. Chúng tôi hi vọng rằng bài viết có giúp ích được cho bạn.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ của LVN Group về đăng ký giấy phép vệ sinh an toàn thực phẩm, đăng ký giấy phép kinh doanh, xin trích lục khai sinh, xác nhận tình trạng hôn nhân Đồng Nai,… Hãy liên hệ qua số điện thoại: 1900.0191.
- FaceBook: www.facebook.com/lvngroup
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@lvngroup
- Youtube: https://www.youtube.com/Lvngroupx
Giải đáp có liên quan
Căn cứ vào khoản 1 điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì điều kiện kết hôn giữa nam và nữ phải tuân thủ các điều kiện sau:
– Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
– Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
– Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
– Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo hướng dẫn tại các điểm a, b, c và d khoản 2 điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2014.
Như thế, trong quy định về điều kiện kết hôn thì không có điều kiện nào cấm người hạn chế năng lực hành vi dân sự không được kết hôn chỉ có quy định cấm kết hôn với người mất năng lực hành vi dân sự. Do đó, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn có quyền kết hôn.
Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải thỏa mãn các điều kiện sau:
– Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình;
– Có quyết định của tòa án tuyên bố là người hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Khi bị tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự thì mọi hoạt động của người đó sẽ bị hạn chế. Những giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người uỷ quyền theo pháp luật trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Người thành niên (là người từ đủ 18 tuổi trở lên – Điều 22 BLDS) là người có đủ năng lực hành vi dân sự.
Với những lứa tuổi khác nhau, tình trạng tâm thần khác nhau, kinh nghiệm sống khác nhau… sẽ có sự nhận thức khác nhau Do đó, pháp luật dân sự không thể công nhận sự bình đẳng về năng lực hành vi trong mọi trường hợp như năng lực pháp luật.
Người đủ mười tám tuổi là những người đã đến tuổi trưởng thành, cá nhân khi đủ mười tám tuổi còn phảo là người khỏe mạnh, trí tuệ phát triển bình thường, không bị mắc các bệnh tâm thần, mất trí, không bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi…. Nghĩa là, cá nhân đó có đủ khả năng để nhận thức được việc mình làm, đủ khả năng để làm chủ, chỉ huy được hành vi của mình.
Vì vậy, những người từ đủ 18 tuổi được suy đoán là người có đủ năng lực hành vi dân sự. Những cá nhân này là những chủ thể có trọn vẹn tư cách chủ thể và có thể tham gia vào các quan hệ dân sự độc lập.