Giả định người tiêu dùng muốn tối đa hóa độ thỏa dụng là gì? Ví dụ về giả định người tiêu dùng muốn tối đa hóa độ thỏa dụng?
Người tiêu dùng để đảm bảo nhu cầu sử dụng của bản thân thông thường họ sẽ phải bỏ ra một khoản tiền nhất định để mua sắm hàng hóa, dịch vụ. Giả định người tiêu dùng muốn tối đa hóa độ thỏa dụng là một cụm thuật ngữ không thực sự phổ biến, bản chất nghiên cứu về nó là nghiên cứu về độ thỏa dụng của người tiêu dùng, từ đó, doanh nghiệp có những điều chỉnh thích hợp trong việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ tối ưu nhất.
1. Giả định người tiêu dùng muốn tối đa hóa độ thỏa dụng là gì?
Độ thỏa dụng (hay còn gọi là lợi ích) là mức độ thỏa mãn (hài lòng) mà người tiêu dùng có được từ việc tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Độ thỏa dụng ngụ ý sự hữu ích, và rất nhiều sản phẩm mà hầu hết chúng ta tiêu dùng có thể không có ích. Độ thỏa dụng cận biên là sự thay đổi trong tổng lợi ích khi tiêu dùng thêm một đơn vị hàng hóa.
Mức độ thỏa dụng mang tính chất chủ quan, nó tùy thuộc vào sự đánh giá mức độ hài lòng, thoả mãn của một người khi tiêu dùng một hàng hóa và dịch vụ nào đó. Với cùng một loại hàng hóa, đối với người tiêu dùng này mang lại một mức hữu dụng lớn nhưng đối với người tiêu dùng khái lại mang một mức thỏa hữu dụng thấp, thậm chí bằng 0. Ngay cả ở bản thân một người tiêu dùng, một hàng hóa tiêu dùng ở các thời điểm khác nhau lại có mức hữu dụng khác nhau. Ví dụ, lượng hữu dụng khi tiêu dùng một đơn vị hàng hóa đầu tiên cao hơn nhiều lần so với lượng hữu dụng khi tiêu dùng đơn vị hàng hóa cuối cùng.
Khái niệm tối đa hóa mức độ thỏa dụng được phát triển bởi các nhà triết học thực dụng Jeremy Bentham và John Stuart Mill. Nó được đưa vào kinh tế học bởi nhà kinh tế học người Anh Alfred Marshall. Một giả định trong kinh tế học cổ điển là giá thành của một sản phẩm mà người tiêu dùng sẵn sàng trả là giá trị xấp xỉ của mức độ thỏa dụng tối đa mà họ nhận được từ hàng hóa đã mua.
Giả định người tiêu dùng muốn tối đa hóa độ thỏa dụng là một kế hoạch chiến lược, theo đó các cá nhân và công ty tìm cách đạt được mức độ thỏa mãn cao nhất từ các quyết định kinh tế của họ. Ví dụ: khi nguồn lực của công ty có hạn, ban giám đốc sẽ thực hiện kế hoạch mua hàng hóa hoặc dịch vụ mang lại lợi ích tối đa.
Giả định người tiêu dùng muốn tối đa hóa độ thỏa dụng là một khái niệm quan trọng trong lý thuyết người tiêu dùng vì nó chỉ ra cách người tiêu dùng quyết định phân bổ thu nhập của họ.
Sự kết hợp của hàng hóa hoặc dịch vụ tối đa hóa mức độ thỏa dụng được xác định bằng cách so sánh mức độ thỏa dụng cận biên của hai sự lựa chọn và tìm ra phương án thay thế có tổng mức độ thỏa dụng cao nhất trong giới hạn ngân sách. Quyết định bị ảnh hưởng bởi lựa chọn tạo ra mức độ hài lòng cao hơn. Điều này giải thích cách các công ty và cá nhân phát triển thói quen tiêu dùng.
Người tiêu dùng có thể cân nhắc mua nhiều hơn một mặt hàng và ít mua một mặt hàng khác. Thông qua việc tối đa hóa mức độ thỏa dụng, người tiêu dùng sẽ mua một mặt hàng tạo ra mức độ thỏa dụng cận biên lớn nhất với mức chi tiêu ít nhất.
Ví dụ: nếu sản phẩm “A” đi kèm với tiện ích cận biên gấp đôi so với sản phẩm “B”, điều đó có nghĩa là sản phẩm “A” đang cung cấp tiện ích cận biên trên một đô la nhiều hơn so với sản phẩm “B.” Do đó, người tiêu dùng có thể quyết định mua nhiều hơn sản phẩm ‘A.’
Giả định người tiêu dùng muốn tối đa hóa tổng độ thỏa dụng:
Tổng mức độ thỏa mãn đề cập đến tổng mức độ thỏa mãn mà một người đạt được khi tiêu thụ một lượng đơn vị sản phẩm cụ thể tại một thời điểm nhất định. Tổng tiện ích của người tiêu dùng càng lớn thì thước đo mức độ hài lòng đạt được càng cao.
Tổng mức độ thỏa dụng được sử dụng để xác định quyết định của người tiêu dùng dựa trên mức tối đa hóa tiện ích trong bối cảnh kinh tế. Ban giám đốc của công ty nên thực hiện các thay đổi về sản xuất bằng cách phân tích mức tăng hoặc giảm tiện ích biên.
Người tiêu dùng cố gắng tối đa hóa mức độ thỏa dụng của họ với mọi mặt hàng được tiêu dùng dựa trên lý thuyết lựa chọn hợp lý. Các quyết định của họ đều hướng tới việc mua được các mặt hàng có giá cả phải chăng nhất với mức độ hài lòng cao nhất.
Nói chung, hành vi của người tiêu dùng dựa trên việc tối đa hóa tổng độ thỏa dụng bằng cách mua các đơn vị cho phép họ đạt được tiện ích tối đa với số tiền họ chi tiêu. Điều này một phần là do hạn chế về ngân sách và mong muốn đạt được càng nhiều sự hài lòng càng tốt từ việc tiêu thụ một sản phẩm.
Trên thực tế, không phải lúc nào người tiêu dùng cũng có thể chọn một gói tối ưu. Ví dụ, nó có thể đòi hỏi quá nhiều suy nghĩ hoặc quá nhiều thời gian. Tính hợp lý có giới hạn là một lý thuyết giải thích hành vi này. Ví dụ về các lựa chọn thay thế cho tối đa hóa tiện ích do tính hợp lý bị giới hạn là; thỏa mãn , loại bỏ theo các khía cạnh và tính toán kinh nghiệm về tinh thần.
– Kinh nghiệm thỏa mãn là khi người tiêu dùng xác định mức độ nguyện vọng và xem xét cho đến khi họ tìm thấy một lựa chọn thỏa mãn điều này, họ sẽ cho rằng lựa chọn này đủ tốt và ngừng tìm kiếm.
– Loại bỏ theo khía cạnh là xác định cấp độ cho từng khía cạnh của sản phẩm mà họ muốn và loại bỏ tất cả các tùy chọn khác không đáp ứng yêu cầu này, ví dụ như giá dưới 100 đô la, màu sắc, v.v. cho đến khi chỉ còn một sản phẩm được cho là sản phẩm người tiêu dùng sẽ lựa chọn.
– Các kế toán tinh thần: Trong chiến lược này người ta thấy rằng người ta thường giá trị chủ quan để tiền của họ tùy thuộc vào sở thích của họ cho những thứ khác nhau. Một người sẽ phát triển các tài khoản tinh thần cho các khoản chi phí khác nhau, phân bổ ngân sách của họ trong các khoản này, sau đó cố gắng tối đa hóa tiện ích của chúng trong mỗi tài khoản.
2. Ví dụ về giả định người tiêu dùng muốn tối đa hóa độ thỏa dụng:
Khi chúng ta nói, người tiêu dùng thích giỏ hàng hóa A hơn giỏ hàng hóa B, thì điều đó cũng hàm nghĩa rằng khi tiêu dùng giỏ hàng hóa A, độ thỏa dụng mà người tiêu dùng nhận được lớn hơn khi tiêu dùng giỏ hàng hóa B. Do không thể đo độ thỏa dụng bằng một thước đo khách quan, trên thực tế, nó không phải là một thước đo về mặt số lượng. Khi sử dụng các giỏ hàng hóa khác nhau, người tiêu dùng đạt được những độ thỏa dụng cao, thấp khác nhau, do đó, có thể so sánh được với nhau (ví dụ, độ thỏa dụng của việc tiêu dùng một số lượng hàng hóa hàng hóa X lớn hơn độ thỏa dụng của việc tiêu dùng một số lượng hàng hóa Y).
Có thể so sánh được các độ thỏa dụng với nhau nên chúng là một loại thước đo thứ tự (có thể sắp xếp độ thỏa dụng theo thứ tự từ nhỏ đến lớn hay ngược lại). Trong khi đó, vì không thể biểu thị độ thỏa dụng bằng những giá trị số lượng nào đó (ví dụ, không thể nói được độ thỏa dụng của việc sử dụng một khối lượng hàng hóa nhất định là bao nhiêu), nó không phải là một thước đo số lượng. Chúng ta giả định rằng, trong lựa chọn của mình về các hàng hóa, người tiêu dùng luôn tìm cách tối đa hóa độ thỏa dụng của mình. Nói một cách khác, với những ràng buộc nhất định, người tiêu dùng sẽ lựa chọn giỏ hàng hóa thích hơp để mức độ hài lòng hay thỏa mãn của mình từ việc tiêu dùng hàng hóa là cao nhất.
Một ví dụ khác:
Sở thích là hoàn chỉnh, có nghĩa người tiêu dùng có thể so sánh và xếp hạng tất cả các giỏ hàng hóa (Giỏ hàng hóa là phối hợp của một hay nhiều loại hàng hóa). Ví dụ, giỏ hàng hóa A với 5 ổ bánh mì và 1 quyển sách và giỏ hàng hóa B với 3 ổ bánh mì và 2 quyển sách, nếu người tiêu dùng đang đói và muốn ăn bánh mì thì giỏ hàng hóa A mang lại cho anh ta thỏa mãn cao hơn giỏ hàng hóa B và như vậy anh ta sẽ thích A hơn B. Ngược lại, nếu anh ta muốn đạt điểm cao trong kỳ thi sắp tới nên cần phải đọc sách thì giỏ hàng hóa B sẽ mang lại mức thỏa mãn cao hơn giỏ hàng hóa A, anh ta sẽ thích B hơn A. Nếu người tiêu dùng thỏa mãn như nhau khi nhận được bất cứ giỏ hàng hóa nào trong hai giỏ hàng hóa trên, ta nói anh ta bàng quan giữa hai giỏ hàng hóa này.
Rõ ràng sự lựa chọn sản phẩm của người tiêu dùng bị ràng buột bởi nhân tố chủ quan là sở thích và nhân tố khách quan là thu nhập (ngân sách) và giá sản phẩm. Như vậy người tiêu dùng phải so sánh lợi ích thấy trước của mỗi sự tiêu dùng với chi phí của nó và việc lựa chọn sản phẩm phải phù hợp nhất với lượng thu nhập có thể có