Lão hóa dân số là một hiện tượng nhân khẩu học liên quan đến sự gia tăng tuổi thọ trung bình của một quốc gia hoặc khu vực. Đặc trưng, hậu quả của lão hóa dân số?
Lão hóa dân số hay già hóa dân số là xu hướng phát triển của dân số ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển do tuổi thọ của con người ngày càng gia tăng và tỷ lệ sinh đẻ giảm sút. Người ta thường nhắc đến vấn đề lão hóa dân số như một thực trạng phổ biến mà rất ít khi giải thích điều đó có nghĩa là gì, chính vì điều đó, Luật LVN Group quyết định dùng toàn bộ dung lượng bài viết dưới đây để giải thích về lão hóa dân số, đưa ra các đặc trưng và đề cập tới các hậu quả của lão hóa dân số đối với sự phát triển của các quốc gia.
1. Lão hóa dân số là gì?
Lão hóa dân số là một hiện tượng nhân khẩu học liên quan đến sự gia tăng tuổi thọ trung bình của một quốc gia hoặc khu vực.
Một số quốc gia ngày nay đang phải đối mặt với tình trạng dân số già, trong đó độ tuổi trung bình của dân số đã tăng lên và một phần lớn dân số được coi là già hơn. Hai lý do chính cho điều này là tuổi thọ tăng và tỷ lệ sinh thấp hơn. Hiện tại, phần lớn các quốc gia phải đối mặt với hiện tượng nhân khẩu học này bao gồm các nền kinh tế tiên tiến, chẳng hạn như Nhật Bản và nhiều khu vực ở châu Âu. Tuy nhiên, người ta dự đoán rằng tác động lớn nhất trong tương lai sẽ xảy ra ở châu Á.
2. Đặc trưng, hậu quả của lão hóa dân số:
2.1. Đặc trưng của lão hóa dân số:
Đặc trưng của lão hóa dân số là sự thay đổi về cơ cấu dân số theo độ tuổi, ở đó có sự gia tăng về tỷ lệ của người trên độ tuổi lao động. Lão hóa dân số cho thấy được số lượng người cao tuổi ngày càng đông trong mối tương quan với tỷ lệ sinh đẻ và người trong độ tuổi lao động.
Dân số thế giới đang già đi với tốc độ đến nỗi những người trên 60 tuổi hiện chiếm hơn 10% và đến năm 2050, con số này có khả năng tăng lên trên 20%. Tăng tuổi thọ là một trong những thành công rõ ràng của phát triển kinh tế, với tuổi thọ là một chỉ số trung tâm và được chấp nhận của sự phát triển . Tuy nhiên, dân số già không đến mà không phải trả giá đáng kể và đặt ra nhiều vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách cần giải quyết. Mối quan tâm ngày càng tăng là vấn đề về tuổi thọ ‘khỏe mạnh’ – sống lâu hơn nhưng không bị khuyết tật đáng kể.
Có thể có một số lợi thế kinh tế khi có một dân số già hơn. Ví dụ, vì những người lớn tuổi có mức tiết kiệm tích lũy trên đầu người cao hơn so với những người trẻ tuổi, một lượng lớn dân số già có thể dẫn đến lãi suất thấp hơn cũng như tỷ lệ lạm phát thấp hơn. Tuy nhiên, phần lớn, dân số già đáng kể dẫn đến nhiều áp lực tài chính đối với cả khu vực nhà nước và tư nhân.
2.2. Hậu quả của lão hóa dân số:
Một trong những vấn đề có thể nảy sinh do một bộ phận lớn trong xã hội đang già đi là khủng hoảng lương hưu. Ở Mỹ, việc trả lương hưu của các công ty, liên bang và tiểu bang có lẽ sẽ ngày càng trở nên khó khăn hơn, vì số lượng người lao động so với những người về hưu đang ngày càng thu hẹp. Để cải thiện tính bền vững của hệ thống lương hưu, một số biện pháp có thể được thực hiện. Ví dụ, tỷ lệ lao động-nghỉ hưu có thể được điều chỉnh bằng cách tăng tuổi nghỉ hưu hoặc bằng cách thay đổi chính sách việc làm và nhập cư. Ngoài ra, có thể giảm số tiền nợ cho người về hưu. Cuối cùng, có thể cần mở rộng nguồn lực để tài trợ lương hưu thông qua việc tăng đóng góp hoặc tăng thuế. Cố gắng thực hiện bất kỳ giải pháp nào trong số này có thể sẽ dẫn đến một số mức độ tranh cãi và tranh luận công khai.
Một nguồn đáng kể khác của các vấn đề liên quan đến dân số già là trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Khi dân số già đi, tỷ lệ khuyết tật, ốm yếu và bệnh mãn tính tăng lên, dẫn đến việc nhiều người cần được chăm sóc sức khỏe hơn (kết hợp với ít người trả tiền hơn, như đã mô tả ở trên). Khi áp lực của nhu cầu tăng lên, các dịch vụ trở nên căng thẳng – danh sách chờ đợi lâu hơn, dịch vụ chăm sóc bị tổn hại, tình trạng thiếu hụt – và chi phí y tế toàn cầu tăng lên.
Tác động của dân số già lên lợi tức thuế là đặc biệt khó ước tính, do có rất nhiều biến số không thể đoán trước và có sự khác biệt đáng kể trong một khu vực địa lý. Trong một nghiên cứu gần đây ở Mỹ, thu nhập từ thuế thu nhập cá nhân dự kiến sẽ giảm trung bình 2,4% / người vào năm 2030. Với xác suất lợi tức thuế ở mức tối thiểu sẽ không tăng do áp lực dân số già phải giảm chi tiêu cho các lợi ích liên quan đến tuổi tác và chăm sóc chắc chắn sẽ tăng lên.
Nếu chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe và lương hưu tiếp tục tăng với tốc độ hiện tại, rõ ràng dân số già đang tạo ra một ‘quả bom nợ’ tiềm năng và một ‘thách thức tài khóa’ sâu rộng. Tại Vương quốc Anh vào năm 2014, phúc lợi của Nhà nước, bảo trợ xã hội và chi tiêu cho y tế được tài trợ công chiếm hơn 50% tổng chi tiêu của Chính phủ (Chi tiêu công). Có lẽ tác động lớn nhất duy nhất đến chi tiêu trong tương lai là sự gia tăng số lượng người trên 85 tuổi, những người có chi phí cung cấp dịch vụ cả bệnh viện và y tế cộng đồng cao hơn khoảng ba lần so với những người từ 65 đến 74 tuổi.
Một hàm ý rõ ràng của dân số già về mặt thị trường lao động là, khi thế hệ trẻ bùng nổ già đi, số lượng lao động ở độ tuổi chính – tức là những người từ 25 đến 49 (và những người hoạt động tích cực nhất) – sẽ bắt đầu ngã. Ở Anh, ước tính rằng đến năm 2020, sẽ chỉ có 20 triệu lao động thuộc nhóm năng động cao này. Số lượng lao động nam trong độ tuổi nguyên tố đã giảm và dự kiến sẽ tiếp tục như vậy, trong khi số lượng lao động nữ trong độ tuổi chính đang tăng lên và được dự đoán sẽ tăng lên đến năm 2020. Những thay đổi này có nghĩa là tình trạng thiếu hụt thị trường lao động gần như không thể tránh khỏi trong một số trường hợp các ngành và nghề nghiệp. Điều này đặc biệt đúng đối với những công việc mà sự già đi có tác động bất lợi rõ ràng, chẳng hạn như xây dựng, xây dựng, công việc đồng áng và các công việc chân tay khác. Tuy nhiên, sự tham gia của những người trên 65 tuổi đã tăng gấp đôi trong thập kỷ qua, từ khoảng 550.000 vào năm 2005 lên 1.100.000 vào năm 2015. Các ước tính cho thấy xu hướng này sẽ tiếp tục.
Ở Việt Nam, theo Tổng cụ Thống kê (xây dựng, sử dụng số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 và năm 2009), “Trong giai đoạn 2009-2019, dân số cao tuổi tăng từ 7,45 triệu lên 11,41 triệu, tương ứng với tăng từ 8,68% lên 11,86% tổng dân số. Dân số cao tuổi tăng thêm chiếm gần 40% tổng dân số tăng thêm. Cũng trong giai đoạn này, tổng dân số tăng trung bình 1,14%/năm thì dân số cao tuổi tăng tới 4,35%/năm. Trong số NCT tăng thêm, nhóm NCT sơ lão (60-69) có tốc độ tăng cao nhất, tiếp đó là nhóm NCT đại lão (từ 80 tuổi trở lên).” Điều này cho thấy xu hướng lão hóa ở nước ta ngày càng tăng, dẫn đến thị trường lao động thiếu đi một lượng lớn lực lượng mà điều đó sẽ ngày càng ngày càng tiếp cận mà không có xu hướng “hạ nhiệt”.
Người cao tuổi gặp khó khăn về tài chính chủ yếu là do họ quá già để không có việc làm và do đó không có thu nhập thường xuyên, nhưng họ phải chịu chi phí y tế lớn do sức khỏe giảm sút. Tuy nhiên, do sự cải tiến của công nghệ y tế, nhiều người cao niên đang sống lâu hơn và sung mãn hơn, nhưng vẫn gặp khó khăn về tài chính. Do xu hướng bần cùng hóa này, Hoa Kỳ đã ban hành các chính sách xã hội được thiết kế để giúp người cao tuổi quản lý các vấn đề tài chính của họ. Các nỗ lực chính sách chính bao gồm An sinh xã hội, một chương trình phúc lợi xã hội đánh thuế khu vực làm việc hiện tại để cấp tiền cho các cá nhân khi nghỉ hưu và Medicare, một chương trình liên bang trợ cấp chi phí y tế cho người cao niên. Trước khi có An sinh xã hội, người cao tuổi là nhóm tuổi nghèo nhất ở Hoa Kỳ.
Với sự ra đời của An sinh xã hội, tỷ lệ nghèo đói của người cao tuổi ở Hoa Kỳ đã giảm đáng kể. Từ năm 1960 đến 1995, tỷ lệ nghèo chính thức của những người từ 65 tuổi trở lên đã giảm từ 35% xuống 10%, theo Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia. Tuy nhiên, do thiếu vốn, con số đó đang bắt đầu tăng trở lại.
Kết luận:
Trên khắp thế giới, mọi người đang sống lâu hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, trong khi xu hướng dân số già ngày càng tăng xuất hiện trên toàn thế giới, người dân ở các quốc gia công nghiệp phát triển lại già hơn những người ở các quốc gia không công nghiệp hóa. Theo Cục Nghiên cứu Dân số, tuổi thọ trung bình ở châu Phi là 53, ở Bắc Mỹ là 78, ở Mỹ Latinh là 73, ở châu Á là 68, ở châu Âu là 75 và ở châu Đại Dương là 75. Trên toàn thế giới, khoảng 8% của tổng dân số toàn cầu trên 65 tuổi, trong khi khoảng 12% người Mỹ trên 65 tuổi.
Một số khác biệt này có thể là do chênh lệch trong chăm sóc sức khỏe. Tiếp cận dễ dàng hơn với công nghệ sinh học phổ biến ở các quốc gia công nghiệp hóa có nghĩa là con người sống lâu hơn. Thật không may, ở một số quốc gia, HIV / AIDS đã tàn phá dân số đến mức tuổi thọ trung bình giảm xuống. Hầu hết các nước này có trình độ phát triển và công nghiệp hóa thấp hơn.
Tác động kinh tế của dân số già là đáng kể. Những người lớn tuổi có mức tiết kiệm tích lũy trên đầu người cao hơn những người trẻ tuổi, nhưng chi tiêu cho hàng tiêu dùng ít hơn. Tùy thuộc vào độ tuổi mà những thay đổi xảy ra, do đó dân số già có thể dẫn đến lãi suất thấp hơn và lợi ích kinh tế của lạm phát thấp hơn. Một số nhà kinh tế nhận thấy những lợi thế trong những thay đổi như vậy, đặc biệt là cơ hội để tiến bộ tự động hóa và phát triển công nghệ mà không gây ra thất nghiệp. Họ nhấn mạnh sự chuyển dịch từ GDP sang phúc lợi cá nhân.
Tuy nhiên, già hóa dân số cũng làm tăng một số hạng mục chi tiêu, trong đó có một số khoản chi từ tài chính công. Lĩnh vực chi tiêu lớn nhất ở nhiều quốc gia hiện nay là chăm sóc sức khỏe, chi phí này có thể sẽ tăng đáng kể khi dân số già đi. Điều này sẽ khiến các chính phủ phải lựa chọn khó khăn giữa các mức thuế cao hơn, bao gồm việc tăng thuế có thể tính từ thu nhập sang tiêu dùng và vai trò của chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe bị giảm đi.