Vòng xoáy giảm phát là gì? Vòng xoáy giảm phát trong tiếng Anh là Deflationary Spiral. Phản ứng đối với vòng xoáy giảm phát?
Vòng xoáy giảm phát mang đến các kết quả phản ánh đối với giá cả hàng hóa trên thị trường giảm. Nó mang lại các kết quả đi ngược lại với lạm phát. Các tác động gây nên biến đổi và mất ổn định thị trường cũng được thể hiện. Giảm phát khiến cho các nhu cầu phát triển sản xuất không được diễn ra. Kéo theo các thụt lùi trong tiến bộ kinh tế. Hiện tượng này diễn ra với các tác động và hệ quả của một cuộc khủng hoảng kinh tế. Các lợi ích trên thị trường không được bảo đảm. Cần thiết các tác động và can thiệp từ nhà nước để mang lại các giá trị phản ánh ổn định trên thị trường.
1. Vòng xoáy giảm phát là gì?
Vòng xoáy giảm phát trong tiếng Anh là Deflationary Spiral.
Vòng xoáy giảm phát là thuật ngữ được sử dụng trong hoạt động và hệ quả kinh tế trên thị trường. Với tính chất của vòng xoáy, một chuỗi phản ứng giảm giá xảy ra. Do tác động của một cuộc khủng hoảng kinh tế. Dẫn đến các hệ quả trong sản xuất thấp hơn, tiền lương thấp hơn, nhu cầu giảm và giá tiếp tục đi xuống. Đây là một loạt các tác động kéo theo. Với các hệ lụy và giảm giá trị trong tất cả các hoạt dộng và nhu cầu của thị trường. Mang đến các bất ổn và gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với giá trị của nền kinh tế.
Khi bắt đầu khủng hoảng, giá giảm làm cho các đối tượng kinh doanh tìm cách bù đắp lợi nhuận. Khi yếu tố trong đảm bảo chất lượng hay năng suất trên thị trường không được thực hiện. Hàng có chất lượng thấp hơn, giá rẻ hơn để khai thác lợi thế cạnh tranh. Việc làm ít dẫn đến tiền lương ít. Các nhu cầu ngày càng cao không được đáp ứng. Do đó, giá được tiếp tục điều chỉnh đi xuống. Nó thể hiện tính chất của một vòng xoáy cơ bản. Nếu không có tác động từ thị trường, các giảm phát tiếp tục xảy ra với tính chất nghiêm trọng hơn. Khi khủng hoảng kinh tế diễn ra, cần thiết có các tác động kịp thời của Chính phủ.
Tính chất của vòng xoáy giảm phát.
Giảm phát xảy ra khi mức giá chung giảm, phản ánh trên tất cả các giá trị của hàng hóa và dịch vụ. Trái ngược với lạm phát là khi mức giá chung tăng. Phản ánh với các tính chất trong mất giá trị của đồng tiền. Khi giảm phát xảy ra, các cơ quan nhà nước cần có các can thiệp kịp thời tác động trên các xu hướng cung cầu. Ngân hàng trung ương và cơ quan tiền tệ có thể ban hành chính sách tiền tệ mở rộng. Với các tính chất để thúc đẩy nhu cầu và tăng trưởng kinh tế. Các nhu cầu nếu được đẩy lên, người tiêu dùng có khả năng và nhu cầu, sẽ mang đến các cán cân cung cầu cân bằng lại.
Tuy nhiên, nếu các nỗ lực chính sách tiền tệ được triển khai trên thực tế thất bại. Do nền kinh tế yếu kém hơn mức dự đoán hoặc do lãi suất mục tiêu đã bằng không hoặc gần bằng không. Các nghiêm trọng trong khả năng và nhu cầu không thể được đáp ứng. Một vòng xoáy giảm phát có thể xảy ra ngay cả khi thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng. Tạo ra một vòng tròn luẩn quẩn, khó khăn trong tìm các khôi phục. Khi một chuỗi các sự kiện xảy ra củng cố và tác động thêm vấn đề khủng hoảng ban đầu. Càng mang đến các điều chỉnh phản ánh xấu thêm hiệu quả kinh tế.
Các phản ánh trên thị trường.
Một vòng xoáy giảm phát xảy ra khi nền kinh tế suy thoái dẫn đến giá giảm. Các đảm bảo trong nhu cầu tiêu dùng không được đáp ứng. Các nguồn cung cũng cần điều chỉnh giảm lại tránh các hàng hóa không thể kịp thời tiêu thụ. Với các diễn biến càng tiêu cực theo thời gian, tác động trên nguyên lý cung cầu càng nghiêm trọng. Người tiêu dùng ngừng chi tiêu và các công ty ngừng đầu tư dự đoán giá thấp hơn trong tương lai. Các việc làm mới không được tạo ra trong khi nhu cầu việc làm vẫn đặt ra đối với người lao động.
Việc chi tiêu giảm dẫn đến một nền kinh tế thậm chí chậm hơn khi nhu cầu giảm dẫn đến thất nghiệp gia tăng. Các yếu tố ổn định đều có xu hướng giảm. Nó cũng phản ánh các hệ quả tương tự như khi lạm phát ở một số khá cạnh. Khi người tiêu dùng không có khả năng trong chi tiêu vì giá được đẩy lên quá cao. Các bất ổn cũng dẫn đến các điều tiết lại trong quan hệ cung cầu. Điều này làm giảm giá thậm chí nhiều hơn, tăng cường vấn đề ban đầu. Cuối cùng là vòng xoáy xảy ra không có hồi kết nếu không có sự can thiệp phù hợp. Các yếu tố này giảm dẫn đến yếu tố khác ảnh hưởng. Và như vậy các nguyên nhân và hệ quả cứ phát sinh theo vòng tròn.
Ví dụ về vòng xoáy giảm phát trên thế giới.
Chu kỳ gia tăng tiêu cực này có thể dẫn đến sự sụt giảm đáng kinh ngạc về sản lượng kinh tế. Một vòng xoáy giảm phát diễn ra vào những năm 1930 tại Hoa Kỳ với cuộc Đại suy thoái. Trong đó một thị trường chứng khoán đã mất gần 90% giá trị của nó. Các giá trị bị mất được trải đều cho các thành phần tham gia trên thị trường. Kéo theo các lợi ích đồng loạt bị mất. Các nhu cầu giảm nhanh chóng mang đến các phản ánh đối với vòng xoáy giảm phát. Có rất nhiều sự đau khổ của con người do thiếu việc làm, cơ hội kinh tế và mạng lưới an sinh xã hội.
Bản chất của vòng xoáy giảm phát.
Một vòng xoáy giảm phát thường xảy ra trong thời kì khủng hoảng kinh tế hoặc suy thoái. Các tính chất khó khăn trong tài chính và hoạt động kinh tế tác động lên giá cả và nhu cầu. Và các tác động dội ngược trở lại làm giảm phát xảy ra nghiêm trọng hơn. Do lúc này sản xuất kinh tế chậm lại và nhu cầu đầu tư và tiêu dùng cạn kiệt. Các nhu cầu được thể hiện với các khả năng tiêu dùng. Khi mà nhu cầu cơ bản cũng phải được tính toán rất kỹ trước khi thực hiện. Các hoạt động lao động hay kinh doanh đều trì trệ. Thu nhập không đủ tiêu dùng. Nhu cầu không còn và cầu giảm. Dẫn đến các giá trị nguồn cung cũng giảm.
Ở đây, các hệ quả lại trở thành nguyên nhân cho sự giảm phát và ngược lại. Các hoạt động mua ra của các nhà sản xuất và kinh doanh không đảm bảo với giá thành sản phẩm. Điều này có thể dẫn đến sự sụt giảm giá tài sản nói chung. Vì các nhà sản xuất buộc phải thanh lí hàng tồn kho mà mọi người không còn muốn mua. Khi nhu cầu không còn, việc tìm kiếm các lợi nhuận vô cùng khó khăn. Hàng hóa không còn giá trị trở thành đối tượng cho kinh doanh. Do đó các hoạt động thanh lý là vô cùng cần thiết. Tìm về các giá trị càng cao càng tốt.
2. Phản ứng đối với vòng xoáy giảm phát:
Các nhà kinh tế học từng cho rằng giảm phát cuối cùng sẽ tự chấm dứt. Vì họ tin rằng rằng giá thấp sẽ thúc đẩy nhu cầu. Đưa các giá cả và nhu cầu trở về trạng thái cân bằng mới. Khi đó, để bảo đảm cho các nhu cầu được thực hiện, các chi phí và giá cả được điều chỉnh lại. Các bên cân bằng nhu cầu trên thị trường với một giá trị giao dịch thấp hơn nhiều.
Tuy nhiên sau đó trong cuộc Đại khủng hoảng, các nhà kinh tế lại thách thức giả định đó. Và đưa ra tranh luận rằng các ngân hàng trung ương cần can thiệp để tăng nhu cầu. Có thể thực hiện bằng việc cắt giảm thuế hoặc tăng chi tiêu chính phủ. Mở ra các cơ hội mới cho các hoạt động sản xuất và kinh doanh được ổn định nhanh chóng. Khi trở thành các đối tác trong hợp đồng với nhà nước. Khi đó sẽ tạo ra các nhu cầu trong việc làm và tìm kiếm thu nhập cho người lao động. Chỉ có nhu vậy các giá trị tài chính mới được tìm lại một cách nhanh chóng nhất.
Khi các thu nhập tăng, đáp ứng nhu cầu thông qua các giao dịch được thực hiện. Lại tạo nên các cán cân mới cho cung cầu. Mang đến các ổn định trở lại với các yếu tố và thị trường.
Các điều chỉnh của quan hệ cung cầu khi giảm phát xảy ra.
Người tiêu dùng và doanh nghiệp cũng bắt đầu giữ dự trữ tiền để phòng ngừa các tổn thất tài chính. Nhu cầu trong tiết kiệm và chi tiêu được tính toán kỹ lưỡng hơn. Người dân càng tiết kiệm nhiều thì chi tiêu càng ít, tổng cầu càng giảm. Mối liên hệ này sẽ không dứt ra nếu các nhu cầu vẫn không được đảm bảo. Nó các khác là các thu nhập phải được cải thiện thông qua sản xuất chung. Và hàng hóa phải được tiêu thụ trong nhu cầu và đòi hỏi ngày càng cao. Các giá trị tiền còn lại được xem là các giá tri lớn. Và ảnh hưởng đến giao đoạn dài khi người tiêu dùng không biết chắc được bao giờ cuộc sống sẽ được ổn định.
Cả người tiêu dùng và người sản xuất đều muốn bảo đảm các lợi ích cuối cùng. Thông qua các hoạt động tính chất an toàn. Điều chỉnh của người mua là tất yếu khi nhu cầu của họ có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn. Điều chỉnh của người bán nhằm giảm thiểu các tổn thất về mức nhỏ nhất.
Các phản ứng không được thực hiện hiệu quả.
Việc sử dụng chính sách tiền tệ để thúc đẩy nhu cầu có một số cạm bẫy. Không phải luôn mang đến các phản ánh tích cực và hiệu quả. Ví dụ, Nhật Bản và Mỹ sử dụng chính sách lãi suất thấp trong những năm 1990 đến 2000 nhằm giảm bớt cú sốc thị trường chứng khoán. Thúc đẩy các hoạt động vay vốn dẫn đến không kiểm soát được khi các nhu cầu tăng cao. Giá tài sản cao bất thường và nợ quá lớn. Khi đó, các khả năng không thể tiếp tục diễn ra. Cũng như vốn không thể tìm lại. Dẫn đến giảm phát và một vòng xoáy giảm phát khác.