Phương pháp xác định mức độ tập trung kinh tế trên thị trường? Ý nghĩa của việc xác định mức độ tập trung kinh tế trên thị trường?
Việc cải cách thể chế kinh tế, trong đó có cải cách khu vực doanh nghiệp đã tạo ra môi trường thông thoáng, thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp để đổi mới hình thức tổ chức kinh doanh và thích ứng với thay đổi của thị trường, đáp ứng các yêu cầu về hội nhập. Một trong những hình thức có xu hướng ngày càng tăng trong nền kinh tế nước ta là hoạt động tập trung kinh tế. Hoạt động tập trung kinh tế ít nhiều đều có tầm ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, cho dù hoạt động này diễn ra ở các nước phát triển hay đang phát triển.
1. Phương pháp xác định mức độ tập trung kinh tế trên thị trường:
Nền kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho cạnh tranh phát triển. Các doanh nghiệp trong ngành tăng lên về số lượng và ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh. Để nhanh chóng gia nhập và cạnh tranh với các đối thủ sẵn có trong ngành, các doanh nghiệp mới tham gia muốn tập trung, liên kết lại với nhau hoặc đôi khi do chính nhu cầu liên kết của một số doanh nghiệp hiện tại trong ngành nhằm đối phó lại doanh nghiệp mới tham gia cũng là nguyên nhân xuất hiện hiện tượng tập trung kinh tế. Bên cạnh đó, mục đích của các doanh nghiệp bao giờ cũng là mở rộng và phát triển hơn trong việc kinh doanh trên thị trường nhằm tăng lợi nhuận. Do vậy, các chủ thể tham gia cạnh tranh thường có xu hướng sáp nhập lại với nhau vừa để làm bàn đạp chinh phục thị trường mới vừa để có thể tập trung về nguồn lực, về vốn và các yếu tố khác trong quá trình tái sản xuất.
Trong một vài trường hợp, các doanh nghiệp nhỏ có kế hoạch mở rộng thị trường nhưng lại bị các hàng rào về tài chính cũng như thanh danh, uy tín cản trở. Cho nên, những doanh nghiệp này chủ động tìm kiếm các đối tác lớn hơn để có những khoản vốn đầu tư cần thiết. Và đến một lúc nào đó, biện pháp sáp nhập sẽ là phương án được ưu tiên hàng đầu. Mặt khác, các doanh nghiệp luôn có xu hướng tăng quy mô để giảm chi phí sản xuất hàng hoá. Họ nhận ra rằng thông qua tập trung kinh tế, họ mới có điều kiện tập trung hơn vào nghiên cứu phát triển sản phẩm phục vụ cho việc cạnh tranh trên thị trường, hoặc tạo ra được mô hình kinh doanh lớn có thể tăng số lượng bán ra để bù đắp cho phần lợi nhuận giảm đi vì phải đầu tư cho nghiên cứu, hoặc tự bảo vệ trước nguy cơ bị nắm quyền kiểm soát tài chính bởi một tập đoàn khác.
Việc xác định mức độ tập trung kinh tế trên thị trường phụ thuộc vào các yếu tố: thị phần, chỉ số CR và chỉ số Herfindahl -Hirschmann Index (HHI). Cụ thể:
– Chỉ số CR hay tỷ lệ tập trung:
Trong kinh tế học, là một tỷ số cho biết quy mô của các doanh nghiệp trong mối quan hệ với toàn bộ ngành của họ. Tỷ lệ tập trung thấp trong một ngành sẽ cho thấy sự cạnh tranh lớn hơn giữa các công ty trong ngành đó, so với tỷ lệ tập trung gần 100%, điều này thể hiện rõ ràng trong một ngành có đặc điểm là độc quyền thực sự.
Tỷ lệ tập trung được tính bằng tổng tỷ lệ phần trăm thị phần được nắm giữ bởi số lượng công ty xác định lớn nhất trong một ngành. Tỷ lệ tập trung nằm trong khoảng từ 0% đến 100%, và tỷ lệ tập trung của một ngành cho biết mức độ cạnh tranh trong ngành. Tỷ lệ nồng độ nằm trong khoảng từ 0% đến 50% có thể chỉ ra rằng ngành này đang cạnh tranh hoàn hảo và được coi là có mức độ tập trung thấp.
Một nguyên tắc chung là tồn tại độc quyền khi năm công ty hàng đầu trên thị trường chiếm hơn 60% tổng doanh số toàn thị trường. Nếu tỷ lệ tập trung của một công ty bằng 100%, điều này cho thấy ngành này là độc quyền.
– Chỉ số Herfindahl -Hirschmann Index (HHI):
Chỉ số Herfindahl-Hirschman (HHI) là một thước đo phổ biến về mức độ tập trung của thị trường và được sử dụng để xác định tính cạnh tranh của thị trường, thường là các giao dịch trước và sau khi mua bán và sáp nhập (M&A).
Nó được tính bằng cách bình phương thị phần của mỗi công ty cạnh tranh trên một thị trường và sau đó tổng hợp các số kết quả. Nó có thể nằm trong khoảng từ gần 0 đến 10.000.
Thị trường càng gần độc quyền thì mức độ tập trung của thị trường càng cao (và mức độ cạnh tranh càng thấp). Ví dụ, nếu chỉ có một công ty trong một ngành, công ty đó sẽ có 100% thị phần và Chỉ số Herfindahl-Hirschman (HHI) bằng 10.000, cho thấy có sự độc quyền. Nếu có hàng nghìn công ty cạnh tranh, mỗi công ty sẽ có thị phần khoảng 0% và HHI sẽ gần bằng 0, cho thấy sự cạnh tranh gần như hoàn hảo.
2. Ý nghĩa của việc xác định mức độ tập trung kinh tế trên thị trường:
Tập trung kinh tế ngày càng trở nên thường xuyên và có quy mô ngày càng lớn. Thực tế này xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, nhưng chủ yếu vì tập trung kinh tế luôn mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp. Những mục đích chính của tập trung kinh tế, đó là: – Tập trung kinh tế giúp cho doanh nghiệp tạo ra mô hình kinh doanh lớn nhằm tăng lợi thế kinh tế nhờ quy mô.
– Tự bảo vệ trước nguy cơ bị nắm quyền kiểm soát tài chính bởi một tập đoàn khác mà doanh nghiệp không mong muốn.
– Tập hợp các doanh nghiệp phân phối hoặc khách hàng vào một mối để đảm bảo tốt hơn nguồn cung ứng hoặc khả năng tiêu thụ sản phẩm (economics of distribution).
– Triển khai các chiến lược tập trung vào một số hoạt động hoặc đa dạng hoá hoạt động.
– Đáp ứng nhu cầu của các tập đoàn nước ngoài chiếm được chỗ đứng trên thị trường.
– Tạo ra cơ hội xâm nhập vào các thị trường mới.
Thị trường có HHI dưới 1.500 được coi là thị trường cạnh tranh, HHI từ 1.500 đến 2.500 là tập trung vừa phải và HHI từ 2.500 trở lên là tập trung cao. Theo nguyên tắc chung, các vụ sáp nhập làm tăng HHI hơn 200 điểm tại các thị trường tập trung cao độ sẽ gây ra lo ngại về chống độc quyền, vì chúng được cho là để nâng cao sức mạnh thị trường.
Xác định mức độ tập trung kinh tế trong thị trường là cách để nhà nước thực hiện kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế hiệu quả, điều phối thích hợp, nhằm hạn chế hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhưng cũng không làm mất đi quyền tự do của các doanh nghiệp
Do nhu cầu phát triển năng lực kinh doanh của thị trường. Dưới góc độ pháp lý, tập trung kinh tế được các doanh nghiệp thực hiện dựa trên những nguyên tắc căn bản mà pháp luật đã thừa nhận, đó là: quyền tự do kinh doanh mà Hiến pháp và các văn bản pháp luật thừa nhận đã tạo ra chủ quyền cho doanh nghiệp trước Nhà nước và pháp luật. Chủ quyền của doanh nghiệp được thể hiện cơ bản ở hai nội dung:
– (i) Doanh nghiệp có quyền định đoạt các vấn đề phát sinh trong nội bộ như: quy mô kinh doanh, ngành nghề, kế hoạch và phương hướng kinh doanh, lao động,…;
– (ii) Doanh nghiệp có quyền tự do liên kết trong kinh doanh, theo đó quyền tự do khế ước bao gồm sự tự chủ trong việc liên kết đầu tư để mua doanh nghiệp khác hoặc liên minh góp vốn thành lập các chủ thể kinh doanh mới. Đồng thời, pháp luật về doanh nghiệp của tất cả các quốc gia đều đã trao cho doanh nhân (trong đó có các doanh nghiệp) quyền được thay đổi quy mô theo nhu cầu kinh doanh. Trên cơ sở đó, các biện pháp tổ chức lại như sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi hình thức kinh doanh,….được ghi nhận như là các biện pháp căn bản để doanh nhân chủ động thích ứng các biến động thị trường, phù hợp với năng lực kinh doanh của mình.
Thực tế cho thấy, từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhờ tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật, lực lượng sản xuất phát triển nhanh hơn thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, việc hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn cũng diễn ra nhanh hơn. Giai đoạn này đã đánh dấu thời kỳ đỉnh cao trong quá trình tập trung tư bản của nền kinh tế thế giới cùng sự phát triển với tốc độ “nóng” của các cường quốc mới nổi như Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản. Đây là thời kỳ vẫn được coi là chuyển giao từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền với sự hình thành của các tập đoàn công nghiệp khổng lồ (trust, consortium). Đó chính là làn sóng đầu tiên về mua bán sáp nhập trên thế giới được nhận biết một cách rõ nét.