Nhằm giúp các bạn học sinh có nhiều kiến thức và nắm vững nội dung bài học, bài viết dưới đây chúng minh gửi đến bạn đọc bài viết Bài nghị luận Đây thôn Vĩ Dạ hay xuất sắc (học sinh giỏi). Cùng tham khảo nhé.
1. Dàn ý Bài nghị luận Đây thôn Vĩ Dạ hay xuất sắc (học sinh giỏi):
1.1. Mở bài:
Giới thiệu bài thơ, tác phẩm, một số nội dung chính của tác phẩm: Miêu tả ước mơ về Đây thôn Vĩ Dạ và khát vọng được sống chan hòa với đất trời của nhà thơ để có thể hóa giải được mọi điều đau thương.
1.2. Thân bài:
a, Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác:
– Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới với giọng điệu ngông cuồng độc đáo không lẫn với ai.
– Bài thơ trích trong tuyển tập “Thơ Điên”, sáng tác khoảng năm 1938
– Hoàn cảnh sáng tác: khi Hàn Mặc Tử nhận được bức ảnh của Hoàng Thị Kim Cúc – người đã từng thầm yêu anh – bao cảm xúc về những kỉ niệm đẹp về thôn Vĩ hiện về đã thôi thúc anh sáng tác bài thơ này. .
b, Phân tích:
* Câu 1: Cảnh vườn và người thôn Vĩ
– Câu mở đầu: một lời mời mà như một lời trách móc thân thiết.
– Cảnh vật: hiện lên trong trẻo, tràn đầy sức sống:
+ Sunshine: tinh khôi buổi sáng
+ Sân vườn: xanh như ngọc
– Con người: than thở cái “mặt đầy” -> dân làng -> tạo bằng bút chấm
– Nghệ thuật cách điệu
=> Thôn Vĩ hiện lên trong tâm trí em với vẻ đẹp thơ mộng ôm ấp mà mờ ảo, như thuộc về hư vô xa xăm.
* Câu 2: Đêm trăng thôn Vĩ
– Tả cảnh chia ly: gió – theo – gió, mây – đường – mâ
– Dòng nước, hoa lá: cảnh đẹp nhưng ẩn chứa một nỗi buồn vô hình
– Không gian trăng: thuyền trăng, bến trăng, sông trăng,… -> gợi sự huyền bí của vũ trụ
Câu hỏi: Thuyền của ai? Phải… tiết kiệm? -> câu hỏi chờ đợi trong làng, được giải quyết bằng nhân vật lưu trữ tình yêu.
=> Đêm trăng trên sông vẫn đẹp muôn đời nhưng buồn vì tâm trạng của nhà thơ.
* Khổ 3: Ảo mộng bao trùm cả cảnh lẫn người
– Vạn vật, dù là thiên nhiên hay con người, dường như đều đắm chìm trong giấc mơ với hàng loạt từ hư vô: mơ, chẳng thấy, mờ hình,… -> trạng thái cô đơn, vô định của thơ.
– Câu hỏi tu từ: Ai biết tình ai có đậm đà?:
+ Ai trước: chủ thể – tác giả
+ Tình thứ hai: nghĩa ở lại: khách đường xa. Nghĩa rộng: người tình/làng Vĩ
=> Hàn Mặc Tử yêu đời tha thiết nhưng bị nỗi đau tinh thần dày vò khiến tâm trí ông luôn trong trạng thái hư vô giữa thần tiên và vĩnh hằng. Ngay cả khi kiệt sức, tôi vẫn hy vọng có thể giao tiếp với cuộc sống.
1.3. Kết luận:
Phản đối vẻ đẹp của nội dung và kỹ thuật của bài viết:
– Nội dung: cảnh thiên nhiên thôn Vĩ và lòng người.
– Nghệ thuật: câu hỏi nhiều từ; Hình ảnh độc đáo, bức ảnh được vẽ thư pháp chân thực kết hợp với icon.
Xem thêm: Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử hay nhất
2. Bài nghị luận Đây thôn Vĩ Dạ hay xuất sắc (học sinh giỏi) hay nhất:
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ ra đời từ một trọng trách rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử Lâm lâm trọng bệnh chờ giây phút cận kề cái chết ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, nhà thơ bất ngờ nhận được tấm ảnh bưu ảnh do bạn gái Hoàng Thị Kim Cúc cùng làng gửi về. Ngụy Dã. Tấm bưu ảnh ấy có phong cảnh sông nước trong một đêm trăng, có thuyền có bến. Vài lời chúc được gắn sau lưng nhà thơ hiện đang lâm trọng bệnh.
Đối với người bình thường, tấm ảnh bưu thiếp chỉ là một mối quan hệ xã giao, nhưng với Hàn Mặc Tử, nó mang một ý nghĩa rất riêng. Nó cho phép nhà thơ yêu người trong mộng của mình bằng một tình yêu sâu sắc trong trái tim. Thế là kiệt tác “Đây thôn Vĩ Dạ” ra đời. Đầu tiên không mở là câu hỏi của một cô gái.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Thực chất đây là một lời trách móc, một nỗi niềm thể hiện nỗi khắc khoải vô vọng của cô gái thôn Vĩ. Nhưng trong thực tế, không có cô gái nào đối đầu trực tiếp với Hàn Mặc Tử. Những lời dịu dàng thân thương ấy là những lời trong tấm bưu ảnh, nó lay động, sống dậy, trở thành giai điệu và phát ra tiếng nói.
Ở câu thơ thứ hai, ta vô cùng bất ngờ vì từ mới vừa thốt ra thì ngay lập tức Hàn Mặc Tử đã có mặt trong không gian của Đây thôn Vĩ Dạ. Rõ ràng đây là một hành trình trong tâm trí.
“Hàng cau nắng mới ngẩng mặt lên”
Câu thơ này xuất hiện hai từ “nắng”. Một mặt trời ló dạng được miêu tả là “chùm cau” và một mặt trời mới mọc trở lại khiến nhà thơ reo lên như những đứa trẻ “nắng mới”. Đây không phải là ánh nắng mà chúng ta nhìn thấy hàng ngày. Đây là một điều rất mới vì nó đã xuất hiện trong phần bình luận. Nên sáng lên trên hàng cau.
Cho đến nay, người ta cho rằng điểm nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến gần. Du khách có thể nhìn thấy nắng trên những cây cau và càng vào gần khu vườn, cây càng xanh màu ngọc bích. Kỳ thật hắn trở về cũng là có tâm, không cần như vậy giở trò.
Mắt Hàn Mặc Tử trên cao ngắm vườn thôn Vĩ. Nhà thơ đang xé toang bầu trời đen kịt để nhìn ánh bình minh mới huyền diệu từ thôn Vĩ Dạ. Không gian nơi có người mình yêu chính là khu vườn địa đàng, nơi có biết bao phép màu cổ tích. Về với thôn Vĩ là niềm vui rạo rực. Vì thế, tâm thức của Hàn Mặc Tử cập bến khu vườn xinh đẹp làng quê
“Vườn ai xanh như ngọc” Câu thơ có hai âm thầm và bất ngờ. Có “vườn ai mướt quá” rồi cũng phát hiện cái “mượt” ấy “xanh như ngọc”. Tất cả đều non, tất cả đều xanh, từng chiếc lá ở đây xanh như ngọc bích. Nó không chỉ cho chúng ta nhận thức trực quan mà còn cho phép chúng ta cảm nhận được sự va chạm của những chiếc lá ngọc bích. “Lá trúc che ngang hoàn toàn mặt chữ”.
Khổ thơ cuối khổ thơ đầu là một đoạn thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “mặt chữ điền” chính là khuôn mặt của cô gái mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Vì “vườn ai” là vườn của tôi nên nhìn mặt tôi trong khu vườn ấy cũng hiểu lắm.
Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên – bạn của Hàn Mặc Tử lại rất không đồng tình với cách hiểu này, ông cho rằng mặt chữ điền không thể xấu nhưng chắc chắn là một khuôn mặt không theo tiêu chuẩn cái đẹp của người Việt Nam khi đánh giá. phụ nữ. Người ta cũng cho rằng, “đắp mặt” là một viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức bình phong của các ngôi nhà ở thôn Vĩ.
Thực ra, nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử, chúng ta sẽ bắt gặp nhiều hình tượng và thế giới lạ lùng. Nhà thơ gặp mình trong quá khứ cũng như trong tương lai là chuyện rất bình thường. Vì sao, dù khó tin, nhưng tại đây Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với Gương mặt điền viên và cũng là một chàng trai tài hoa nổi tiếng xứ Huế.
Một nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong sáng, thanh thoát, say đắm thì phải trở về làm người của quá khứ, phải là một thi sĩ đa tình của thời ở Huế. Nói đúng ra, nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu. Hình ảnh “lá tre đi ngang” mang đến cho người đối diện nét dũng mãnh, phóng khoáng và mạnh mẽ của người đàn ông. Theo quan niệm xưa, lá tre là biểu tượng của người quân tử.
Nếu khổ thơ đầu cho ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai lại cho ta ấn tượng về buổi chiều trong khoảng không vắng vẻ ngoài thôn Vĩ Dạ và sau đó là buổi chiều với cảnh sông nước tràn thuyền. ánh trăng. Cả bốn câu thơ phần nào gợi cho ta hình ảnh phong cảnh xứ Huế, nhưng thực ra hình ảnh nào cũng tồn tại trong mối quan hệ nghịch lí, trái tự nhiên. “Gió theo gió, mây theo mây”.
Câu thơ thứ hai không chỉ là nghịch lý mà còn là giễu cợt. Nếu đột nhiên lay động bông hoa, nhất định mặt nước sẽ dao động. Nhưng ở đây, chỉ có hoa di chuyển theo chân để nước chảy một mình. Thà xa mặt mà lòng như mây gió, còn hơn đứng cạnh nhau mà trao nhau bao cay đắng ngậm ngùi.
Nếu như khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu đến trong một đêm tuyệt vời thì đến khổ thơ thứ hai ta lại gặp một tình yêu tan vỡ. Qua những lời bóng gió, Hàn Mặc Tử đã phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ. Là kẻ ngoại tình bội ước, làm tan nát cõi lòng kẻ si tình khờ dại.
Người tình trong mộng của Hàn Mặc Tử có lúc đón chào một thế giới yêu thương chờ đợi, có lúc trở thành người tình tàn nhẫn vô cùng lạnh lùng. Và thật ngạc nhiên, con người bỗng tỏ ra nhân hậu, độ lượng.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hình ảnh vầng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện nhiều. Vầng trăng muôn đời là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Khát khao hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, trăng khuyết. Nhân vật “ai” ở đây chỉ có thể là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Người đang đợi đóng thuyền ở bến sông để mong đợi nhiều ánh trăng vui và sẽ đón trăng về với thi nhân đêm nay. Đó chính là tình yêu cao cả, là sự thấu hiểu tột cùng những khát khao của Hàn Mặc Tử.
Nhưng từ “kịp” ở đây lại bỏ sót một câu hỏi: đêm nay ta có đợi trăng về không? Có thể kip và có thể không nghỉ nữa… Đêm nay là một khái niệm thời gian ngắn. Hàn Mặc Tử biết đời người chỉ là những giây phút ngắn ngủi trên cõi đời, sẽ có người hạnh phúc đến với thi nhân, nhưng nếu đến với đời thì hạnh phúc ấy thật vô nghĩa.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa” Mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ rất đặc sắc. Khách vốn là những người xa lạ, nhưng nhà thơ lại càng thích sự lạ đó đến hai lần: “khách đường xa, khách đường xa”. Tuy nhiên, có một giấc mơ về một vị khách lạ. Thực ra đây chính là người đã mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ nhưng nhà thơ hiểu rằng người này đã ngoài tầm với của mình. Người đó ngày càng xa lạ, không thể níu kéo nên Hân lại càng dấn thân vào giấc mơ. Tình cảm này có thể được nhìn thấy trong các bài thơ Hàn Quốc khác:
“Người đã đi rồi không níu lại
Tình yêu chưa đã, mến chưa bưa
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi đến dại khờ”.
Với mong muốn tìm được một tình yêu mộng mơ để sống có ý nghĩa trong những giây phút cuối đời, tâm trạng của Hàn Mặc Tử luôn có những đối cực. Lúc đầu thì tràn đầy hy vọng, sau lại gọi người mình yêu là kẻ ngoại tình; Ngay sau đó, nhà thơ thấy người con gái mời mình về thăm thôn Vĩ thật chung tình, sẵn sàng chờ đợi ánh trăng hạnh phúc sẽ đến với mình.
Tiếp đó, Hàn Mặc Tử tuyệt vọng nhìn người yêu như “khách phương xa”. Nhưng ngay sau đó, nhà thơ đã thấy người trở về bên mình, người con gái ấy hoàn toàn trong sáng, thánh thiện. Đại từ “em” thật xa lạ, thật gần gũi: “Áo em trắng quá nhìn không thấy”. Ngay khi câu thơ khơi dậy niềm hi vọng, thì đối với Hàn Mặc Tử, lập tức lại thấy tuyệt vọng. “Áo em trắng quá”, lẽ ra anh phải nhìn em rất rõ. Nhưng áo của bạn càng trắng, tôi càng không thể nhìn thấy. Thực ra, ta không quan sát trước bởi vì ngươi quá trong sáng và thanh cao…
Dù tình yêu là một quy luật. Còn thờ để rồi mặc cảm như Hàn Mặc Tử là do chính cuộc đời mình gây ra. Nhà thơ hiểu rõ hoàn cảnh thực tế của mình nên dù nhân vật “em” có về với mình, nhà thơ cũng không màng. Hàn Mặc Tử đã phải tự chối bỏ tình yêu của mình. Câu thơ thứ ba nhuốm màu bi tráng của một triết lý nhân sinh: “Ở đây sương mù mịt”. Nguyễn Gia Thiều từng viết:
“Con quay búng sẵn lên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”
Đời người là một con quay hồi chuyển hiện hữu, bản thân chúng ta không thể điều khiển được một số phần trong mình. Trong mối quan hệ của chúng ta với người khác, chúng ta chỉ có thể nắm bắt được “hình ảnh” chứ không thể nắm bắt được mối quan hệ của người đó. Hàn Mặc Tử cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình không thể chủ động với chính mình, không thể nhìn rõ hình ảnh người yêu.
Nhà thơ hiểu rằng khói lửa cuộc đời đang xóa đi “hình ảnh” lãng mạn của nhân vật “em”… Đó là một nhận thức cay đắng và đáng thương, nó để lại một sự trống trải như hoang mang trong tâm hồn. Hàn Mặc Tử. Đây chính là lý do khiến nhà thơ thốt lên một câu hỏi vô vọng, tuyệt vọng không còn chỗ bấu víu: “Biết rằng tình ai giàu?”.
Hai đại từ “ai” trong câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: Không biết em có hiểu được tình sâu nghĩa nặng của riêng mình hay không? Tôi không biết bản thân anh ấy có biết tình yêu của chính mình mạnh mẽ đến mức nào không? Anh có biết tình yêu của em mạnh mẽ không? Bạn có biết tình yêu của tôi mạnh mẽ như thế nào không?
Một câu hỏi trong một bài thơ, nhưng ẩn sau đó là biết bao câu hỏi, càng hỏi càng thấy “mờ ảo”, càng tuyệt vọng. Một tình yêu càng nồng nàn, Hàn Mặc Tử càng thấy tuyệt vọng với tình yêu. Vì vậy, cảm hứng chủ đạo của “Đây thôn Vĩ Dạ” là cảm hứng đau lòng về một tình yêu tuyệt vọng.
Mọi sự tuyệt vọng đều dành cho những người bi quan, nhưng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử dạy cho chúng ta những giá trị nhân văn cao cả. Nhà thơ bám lấy cuộc đời này bằng tình yêu, dù đó là một tình yêu tuyệt vọng. Chúng ta không có hoàn cảnh éo le như Hàn Mặc Tử nên cần phải biết sống, biết yêu trong cuộc đời trần thế tươi đẹp đáng sống này.
Xem thêm: Tóm tắt tác giả tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác Đây thôn Vĩ Dạ
3. Bài nghị luận Đây thôn Vĩ Dạ hay xuất sắc (học sinh giỏi) ý nghĩa nhất:
Trọng Thi, Hoài Thanh, Hoài Chân của Việt Nam xếp Hàn Mặc Tử vào nhóm thơ “dị” cùng với Chế Lan Viên. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, nhiều quả lạ. Ông đã tạo cho mình “một thế giới nghệ thuật điên rồ, ma quái, xa lạ với đời thực”. Tuy nhiên, bên cạnh những ảo tưởng, đôi khi các nhà thơ cũng tạo ra những hình ảnh tuyệt vời và hồn nhiên, trong trẻo lạ thường. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ như vậy. Đọc bài thơ, ta thấy một khía cạnh rất đẹp trong tâm hồn nhà thơ.
Có tài liệu cho rằng bài thơ được lấy cảm hứng từ một bức ảnh phong cảnh xứ Huế và vài câu chúc của Hoàng Cúc, người con gái thôn Vĩ Dạ xứ Huế, cũng là người mà Hàn Mặc Tử thầm yêu năm xưa. Vì vậy, bài thơ vừa làm sống lại những kỉ niệm về xứ Huế mộng mơ, vừa thơ mộng, vừa nói lên tâm trạng buồn bã, vô vọng, bâng khuâng phiêu lãng như sương, như khói.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu thơ mở đầu này vừa là câu hỏi, vừa là lời mời, chứa đựng cả sự ngạc nhiên và tiếc nuối. Cảnh Vĩ Dạ đẹp quá, hấp dẫn quá sao bạn không về?
Cảnh đẹp thiên nhiên thôn Vĩ Dạ hiện lên qua một vài nét vẽ nhẹ nhàng, nhưng đầy ấn tượng. Ấn tượng đã ăn sâu vào tâm hồn nhà thơ về Huế. Cảnh vật nơi đây dường như đã được lọc sẵn qua tâm trí nhà thơ, chỉ giữ lại những đường nét tiêu biểu nhất. Một buổi sáng ở thôn Vĩ, ánh nắng chiếu rực rỡ trên những cây cau còn ướt sương đêm. Hàng cau xuất hiện trong một thời khắc đặc biệt, gắn với ánh nắng mới trong trẻo, tinh khiết, cụ thể và gợi cảm.
Tả cảnh vườn xum xuê tươi tốt, Hàn Mặc Tử chỉ tập trung tô đậm vẻ xanh tươi của lá cây: Vườn ai sao xanh như ngọc. Khung cảnh nơi anh sinh ra chắc chắn sẽ đứng dậy khi một bóng người xuất hiện, khuôn mặt kín đáo, nhân hậu, dịu dàng:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Thiên nhiên và con người thật hài hòa, gợi lên cái hồn và con người Vĩ Dạ, một Vĩ Dạ ôm lấy một trời thơ, bởi “nàng” ở đó, trong vườn thược dược nên càng mộng mơ. Ở khổ thơ thứ hai, tâm trạng nhà thơ dường như thay đổi hoàn toàn. Nếu như ở khổ thơ đầu, một Vĩ Dạ với cảnh sắc trong trẻo khác thường thì ở khổ thơ này, một nỗi buồn đã bao trùm lên tất cả. Sự thay đổi đột ngột từ vui sang buồn là một lẽ phổ biến trong Thơ mới và văn học lãng mạn nói chung:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Có thể Huế trong khổ thơ là Huế trong những kỉ niệm đẹp của quá khứ, còn Huế trong khổ thơ thứ hai là Huế trong tâm trạng nhà thơ khi trở về với hiện tại. Đây thôn Vĩ Dạ hiện ra vẫn nên thơ với gió, trăng, mây, thuyền và hoa. Nhưng tất cả đều nhuốm màu buồn. Tâm trạng người buồn trông biệt ly, buồn bã:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Mây gió đã ngăn cách hai bên, tưởng có mối nào; Nước biết vui buồn cũng biết buồn. Hình ảnh hoa lá gợi một nỗi buồn hiu hắt. Một nỗi buồn bao trùm từ trời xuống đất, từ mây gió đến nước hoa bên sông. Đằng sau những cảnh ấy là tâm trạng của người con trai mang một nỗi buồn chia ly, một tình yêu vô vọng.
Giờ đây tất cả chỉ còn lại trong giấc mơ, cảnh vật cũng như tình người. Một không gian tràn ngập ánh trăng, dòng sông trăng, bến trăng, thuyền buồm trăng rằm… Cảnh nên thơ mà buồn:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Nhà thơ dường như không còn sống với ngoại cảnh mà chìm đắm trong chính lòng mình. Dòng sông với cảnh mộng và với người mộng, Hàn Mặc Tử ở khổ thơ cuối như một cuộc đối thoại giữa mộng với vật hư ảo:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Hình ảnh cô thôn Vĩ xưa chập chờn trong giấc mơ mang đến cho nhà thơ cảm giác bơ vơ, bâng khuâng. Màu áo con gái Huế trắng quá như lẫn trong sương khói. Sương khói của đất trời xứ Huế hay sương mù của thời gian và không gian xa xăm bao phủ một tình yêu cũng rất xa.
Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi và kết thúc bằng một câu trả lời. Câu trả lời cũng là một câu hỏi. Phải biết thương ai mới được về thăm thôn Vĩ? Hàn Mặc Tử đã ra đi nhưng bài thơ thôn Vĩ vẫn còn đó. Bài thơ ấy đã vượt qua sương mù thời gian để bất tử hóa một tình yêu tuyệt vọng nhưng rất lãng mạn, trong sáng.
Xem thêm: Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử chọn lọc siêu hay