Hoàn cảnh sáng tác Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ngắn gọn nhất

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một bài văn tế rất hay do Nguyễn Đình Chiểu sáng tác. Qua bài văn tế nhằm ngợi ca và kính phục những người anh hùng, anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp tại Cần Giuộc. Để hiểu rõ hơn về tác phẩm, mời các bạn cùng theo dõi hoàn cảnh sáng tác và dàn ý bài phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc dưới đây.

1. Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Đình Chiểu:

1.1. Tiểu sử cuộc đời:

Nguyễn Đình Chiểu sinh năm 1822, mất năm 1888), hiệu là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh ra tại quê mẹ – làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh). Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho. Năm 1846, ông tốt nghiệp tú tài trường Thi Gia Định. Năm 1846, ông vào Huế dự thi  tại quê cha thì được tin mẹ mất, ông phải về Nam chịu tang (1849). Trên đường về nhà, ông bị đau mắt nặng và bị mù. Không khuất phục trước số phận, Nguyễn Đình Chiểu về Gia Định mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, thơ văn bắt đầu vang khắp tỉnh.

1.2. Con đường nghệ thuật:

Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà thơ đầu tiên ở Nam Kỳ chủ yếu sáng tác bằng bút ký. Cuộc đời sáng tác chia làm hai thời kỳ: trước khi thực dân Pháp xâm lược và sau khi thực dân Pháp xâm lược.

‐ Giai đoạn đầu: Truyện Lục Vân Tiên và Dương Từ – Hà Mậu.

‐ Giai đoạn sau: Ông là ngọn cờ đầu của văn thơ yêu nước chống Pháp với những tác phẩm lớn: Chạy Giặc, Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,…

Nội dung thơ văn: lí tưởng đạo lí nhân nghĩa và lòng yêu nước thương dân của dân tộc.

Thơ và nghệ thuật văn học: lối viết trữ tình, đậm sắc thái Nam Bộ, lối kể chuyện giàu chất thơ…

Xem thêm: Phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu

2. Giới thiệu khái quát tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”:

2.1. Hoàn cảnh đất nước:

Trong những năm 1861-1862, cả nước và đặc biệt là nhân dân Nam Bộ đang kiên cường chống giặc ngoại xâm – thực dân Pháp.

2.2. Hoàn cảnh sáng tác:

Mẫu 1: Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được đồn Gia Định đầu năm 1859, quân Pháp khởi binh đánh chiếm mở rộng ra các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công,… Vào đêm rằm tháng 11  Tân Dậu (ngày 16 tháng 02 năm 1861), các nghĩa sĩ vốn là nông dân vì quá uất hận giặc ngoại xâm đã anh dũng phục kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt một số quân giặc và quan tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng 20 nghĩa sĩ đã hy sinh. Những tấm gương của các anh hùng này đã tạo ra sự xúc động lớn trong nhân dân. Theo yêu cầu của  Gia Đình Tuân, Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” có thể đọc trong lễ truy điệu các nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận đánh đó. Như vậy, bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được tác giả Nguyễn Đình Chiểu viết tại Cần Giuộc, thuộc tỉnh Long An.

2.3. Nội dung:

Tác phẩm kể về những trận chiến đấu của các nghĩa sĩ, những sự hy sinh anh dũng và nói lên nỗi đau thương, mất mát, lòng thành kính, biết ơn của người ở lại đối với những người đã khuất. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu trình bày đọc trong lễ an táng các nghĩa sĩ nông dân anh dũng hy sinh trong trận đánh đồn  Cần Giuộc năm 1861. Tuy đã tiêu diệt  được nhiều tên địch và bọn quan lại bán đất mà hai mươi nghĩa sĩ đã anh dũng hy sinh, để lại trong lòng nhân dân một niềm tiếc thương khôn tả. Chính vì vậy, tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu đã phần nào thể hiện được tấm lòng thương xót của nhân dân, đồng bào đối với những người lính áo vải trong trận quyết chiến ở Cần Giuộc.

2.4. Giá trị nội dung:

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca bi tráng về thời kỳ hào hùng và đau thương của dân tộc; biểu dương lòng dũng cảm, kiên cường, tinh thần bất khuất và lòng yêu nước của các nghĩa sĩ nông dân đã hy sinh vì đại nghĩa, đồng thời cổ vũ tinh thần đánh giặc và tinh thần yêu nước của dân tộc ta trong điều kiện khó khăn.

2.5. Giá trị nghệ thuật:

Tạo dựng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chất hiện thực, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, sinh động.

Xem thêm: Cảm nhận về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc chọn lọc hay nhất

3. Dàn ý phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc:

3.1. Mở bài:

‐ Giới thiệu tác giả và tác phẩm l:

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc thực sự là tác phẩm đỉnh cao của Nguyễn Đình Chiểu, tác phẩm là sự kết tinh sâu sắc nhất, tiêu biểu nhất cho tư tưởng của tác giả. Bằng tình yêu và sự bất khuất mình, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng nên một  tượng đài vĩ đại của người nghĩa sĩ nông dân trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, tuy đầy đau thương mất mát nhưng vô cùng hào hùng, anh dũng vì nhân dân.

3.2. Thân bài:

Phần lung khởi:

‐ “Hỡi ôi”: Tiếng kêu cảm thán diễn tả nỗi buồn chân thật xen lẫn sự bàng hoàng đau đớn.

‐ “Súng giặc đất rền”: Trời đất quay cuồng, tiếng súng của quân giặc cất lên khiến trời đất rung chuyển, run sợ.

‐ Cho thấy sự tàn phá khủng khiếp và nặng nề của kẻ thù bằng vũ khí hiện đại, cho thấy sự tàn ác vô nhân đạo của chủ nghĩa thực dân.

‐ Lòng dân trời tỏ”: Người Việt vùng lên bảo vệ tổ quốc, lòng yêu nước được trời đất ghi nhận, cuộc đấu tranh của nhân dân ta là cuộc đấu tranh cho chính nghĩa, được trời đất ủng hộ

→ tuy vậy, nhưng cuộc đấu tranh cam go đã làm nức lòng người liệt sĩ để trở thành bất tử.

‐ Bài ca khái quát hoàn cảnh, tinh thần thời đại và khẳng định sự bất tử của người nông dân anh hùng.

Phần thích thực

‐ Nguồn gốc xuất thân của người nghĩa sĩ:

  • Họ đều xuất thân từ những người nông dân nghèo, cùng làng, xóm,… chịu bao nhiêu ách áp bức của bọn thực dân, phong kiến.

  • “Cui cút làm ăn”: hoàn cảnh sống côi cút không ai nương tựa, vất vả nhưng chăm chỉ cần cù.

  • Họ là những con người chất phác, hiền lành cả đời chỉ nghĩ đến ruộng vườn với những việc đời thường, họ hoàn toàn không biết gì về chiến trận.

  • Nghệ thuật tương phản “vốn quen” – “chưa biết”, “chưa quen” – “chỉ biết” để nhấn mạnh sự tương phản về tầm vóc của người anh hùng.

‐ Lòng yêu nước nồng nàn:

  • Khi thực dân Pháp xâm chiếm đất nước; ban đầu người nông dân sợ hãi chờ tin quan rồi sau đó đến căm thù rồi nổi dậy chống quân xâm lược → thái độ của  nông dân thay đổi lạ thường.

  • Khi đất nước bị đô hộ, ý chí của người dân càng mạnh mẽ, họ không cần ép buộc mà tự nguyện dấn thân. Ở họ, chúng ta không  thấy một hình ảnh bi thảm nào do bị ép buộc, mà họ đã tự nguyện bước vào trận chiến, đưa ra lựa chọn cao cả dựa trên truyền thống dân tộc.

  • Căm thù giặc ngoại xâm  đến tột cùng.

  • Họ không tha thứ cho những kẻ nói dối bịp bợm.

‐ Tinh thần chiến đấu hi sinh của người nghĩa sĩ:

  • Vốn không phải là một người lính, chỉ là một dân ấp dân lân, nhưng “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”, một tinh thần chiến đấu sẵn sàng xung phong và hy sinh vì điều đó.

  • Anh dũng và dũng cảm, “coi giặc cũng như không”

  • Quân trang rất cơ bản: áo vải, lưỡi dao phay, rơm con cúi, ngọn tầm vông,….

  • Một bên là vũ khí tối tân nhất trong khoa học quân sự, một bên những vật dụng thường ngày được dùng như vũ khí.

  • Tất cả các đoạn miêu tả đều nhấn mạnh tính chất chênh lệch trận đánh, điều kiện chiến đấu và tinh thần chiến đấu dũng cảm, đánh giặc coi giặc như không, liều mình như chẳng có, làm kẻ thù thất điên bát đảo.

  • Lập được chiến công đáng tự hào: “đốt nhà dạy đạo”, “chặt đầu quan hai nọ”

  • “Đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”…: động từ mạnh biểu thị hành động mạnh mẽ với nhịp độ căng thẳng, dồn dập, tạo không khí hoành tráng. Đặc biệt các câu 13, 14, 15 nhịp ngắn, kết cấu chắc, nhịp nhanh câu ngắn, tạo khí thế thần tốc, chinh phục địch, tinh thần xung phong được nâng cao, tăng cường sức mạnh, ý chí kiên cường.

  • Đoạn văn đã dựng tượng đài liệt sĩ Cần Giuộc, người đã vươn lên từ khó khăn, vượt khó bằng nghị lực phi thường, tinh thần dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ Tổ quốc.

  • Thể hiện niềm tự hào, kính trọng, ngợi ca của người viết đối với những người lính chân chất, dũng cảm.

‐ Phần ai vãn:

  • Sự hy sinh anh dũng của người nông dân được thể hiện trực quan cùng với sự tiếc thương chân thành.

  • Hình ảnh gia đình: nỗi buồn, cô đơn, chia ly,… gợi lên không khí đau thương, buồn bã thời hậu chiến.

  • Nhiều tiếng khóc vang lên xen lẫn đau đớn. Con người, cỏ cây, sông núi đang khóc, khóc vì chuyện của mình, khóc vì những người chân lấm tay bùn, những người lẽ ra phải được che chở, bảo vệ thì lại gặp hoạn nạn.

  • Tiếng khóc ấy không kém phần đau đớn, nhưng xen lẫn, vừa xót xa vừa bi thương, khóc những giọt nước mắt chua xót cho bi kịch của những gia đình mất người thân trong chiến trận.

  • Có cả sự căm giận, căm ghét bọn thực dân Pháp tàn ác, căm giận một triều đình vô trách nhiệm và cả nỗi xót xa cho những người ở lại.

‐ Phần kết:

  • Tác giả khẳng định: “Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ”, “Danh tiếng nghìn năm còn lưu mãi”.

  • Dù phải hy sinh anh dũng  nhưng tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước nồng nàn và nghị lực của người nông dân anh hùng đã trở thành ký ức bất tử, trường tồn mãi với thời gian.

  • Đó là nỗi buồn chung của mọi người, mọi thời đại, một bài ca bi tráng về người anh hùng liệt sĩ.

  • Tuy buồn nhưng nó vô cùng bi tráng chứ không hề bi lụy, sự hi sinh là sự hi sinh cao cả tô đậm thêm vẻ đẹp của người nghĩa sĩ.

3.3. Kết bài:

‐ Khẳng định giá trị của tác phẩm

Bài văn tế mô tả tượng đài nghĩa sĩ Cần Giuộc trong cuộc chiến đấu anh dũng của dân tộc ta. Họ không chiến đấu để lưu danh sử sách, mà vì hòa bình của đất nước, dân tộc. Họ bước vào cuộc chiến với niềm tự hào và chọn một cuộc sống cao thượng, trở thành một đạo lý tốt đẹp cho dân tộc ta. Qua đó ta thấy được sự kính trọng và tiếc thương của Đồ Chiểu đối với những bậc anh hùng áo vải. Tác phẩm mãi mãi là khúc ca bi tráng hào hùng, mãi mãi giữ nguyên giá trị không chỉ trong nền văn học Việt Nam mà còn trong dòng chảy lịch sử dân tộc.

Xem thêm: Mở bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc cơ bản, nâng cao hay nhất

Theo dõi chúng tôi trênDuong Gia FacebookDuong Gia FacebookDuong Gia TiktokDuong Gia TiktokDuong Gia YoutubeDuong Gia YoutubeDuong Gia GoogleDuong Gia Google
5/5(1
bình chọn
)

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com