Phân tích vẻ đẹp người tráng sĩ trong bài thơ Tỏ lòng siêu hay

Mặc dù đã tồn tại được 7 thế kỉ, nhưng bài thơ Thuật hoài vẫn luôn mới mẻ và hấp dẫn, sâu sắc ảnh hưởng đến nhiều thế hệ độc giả. Từ bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được vẻ đẹp hoành tráng của người trai Trần, đồng thời cảm nhận được sự chân thực trong tác phẩm.

1. Dàn ý cảm nhận về vẻ đẹp của người tráng sĩ trong bài thơ Tỏ lòng

1.1. Mở bài:

Giới thiệu tác giả Phạm Ngũ Lão và bài thơ Tỏ lòng. Nổi bật hơn cả là chân dung vẻ đẹp của người tráng sĩ .

1.2. Thân bài:

a. Hoàn cảnh sáng tác:

Sau chiến thắng vẻ vang của nhà Trần trong cuộc chiến chống quân Mông Nguyên, bài thơ này đã tái hiện chân dung nhân vật với chí khí lớn, tạo động lực cho thời đại.

b. Hào khí qua con người và hình ảnh quân đội nhà Trần

Con người thời Trần được miêu tả là có chí khí.

Tư thế “hoành sóc” được mô tả là cắp ngang ngọn giáo, biểu thị tính uy nghi của người lính.

Bản dịch thơ dịch “múa giáo” quá phô trương, không thể thể hiện được vẻ đẹp tự nhiên của con người.

Không gian “giang sơn” rộng lớn, phù hợp với tính cách của con người trong môi trường rộng lớn.

Thời gian “kháp kỉ thu” đã trôi qua rất nhiều năm, nhưng khí thế của con người vẫn bền vững qua thời gian.

⇒ Con người được miêu tả là lớn lao và có thể sánh ngang với vũ trụ.

Quân đội nhà Trần được miêu tả là hùng mạnh, mang trong mình sức mạnh của tiền quân, trung quân, hậu quân.

Quân đội được so sánh với “tì hổ” – hổ báo.

Hình ảnh “khí thôn ngưu” biểu thị sức mạnh lớn lao.

→ Tác giả đã phóng đại hình ảnh để thể hiện sự ngợi ca và tự hào về sức mạnh của quân đội nhà Trần.

Hào khí Đông A đã làm sống dậy hình ảnh con người với sức mạnh lớn lao, tạo nên niềm tự hào về dân tộc hùng mạnh.

c. Nỗi thẹn của tác giả và chí làm trai lớn lao.

– Nợ công danh: một món nợ lớn trong quan niệm Nho giáo của nam phái.

Phạm Ngũ Lão: cho rằng nam giới sống trên đời mà không có công danh, sự nghiệp thì thấy thẹn lòng, xấu hổ.

“Thẹn”: cảm thấy thua kém, xấu hổ vì chưa có đóng góp cho quốc gia, dân tộc.

Vũ Hầu: Khổng Minh – tấm gương sáng về con người với sự cống hiến cho Lưu Bị, góp phần xây dựng cuộc sống cho nhân dân.

Phạm Ngũ Lão: Con người từ thuở hàn vi đã lo cho dân, cho nước, làm những chức vụ lớn lao nhưng vẫn thấy hổ thẹn, xấu hổ vì đóng góp của mình là nhỏ bé.

Tất cả đều chung một khát vọng, hoài bão để thực hiện lý tưởng lớn giúp vua, giúp nước.

d. Khái quát nội dung, nghệ thuật.

– Bài viết đề cập đến nội dung về chân dung con người và quân đội thời Trần, với sức mạnh và khí thế đặc trưng của họ. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng kêu gọi người làm trai phải có trách nhiệm đóng góp cho dân tộc, và lắng nghe bậc tiền bối

– Nghệ thuật sử dụng trong bài viết là “thuyết Vũ Hầu” để tạo ra lời thơ hùng tráng, so sánh và liên tưởng giàu sức gợi cảm.

1.3. Kết bài:

Cảm nhận của bản thân về vẻ đẹp người tráng sĩ trong bài

Xem thêm: Mẫu mở bài cảm nhận, phân tích bài thơ Tỏ lòng hay nhất

2. Phân tích hình ảnh người tráng sĩ trong bài thơ Tỏ lòng hay nhất

Phạm Ngũ Lão, mặc dù xuất thân bình dân, nhưng là một người tài năng với cả võ nghệ lẫn văn chương. Theo truyền thuyết, ông đã gặp Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong thời gian họ đang đánh giặc người xâm lược từ phía Bắc. Lúc đó, Phạm Ngũ Lão đang ngồi giữa đường đan sọt. Dù binh lính đã la hét để giải tán đường, nhưng ông vẫn không nghe thấy cho đến khi bị chọc vào đùi bằng một cái giáo. Sự việc này đánh thức ông khỏi suy nghĩ về “nợ công danh” và truyền cảm hứng để ông đem tài năng của mình đóng góp cho đất nước đánh đuổi giặc ngoại xâm. Nhờ tài năng của mình, ông được Hưng Đạo Vương tuyển mộ làm tướng quân và có nhiều đóng góp lớn, trở thành một trong những anh hùng lừng lẫy nhất trong thời kỳ Trần.

Thuật hoài là một loại thơ thể hiện lòng quyết tâm và dũng khí của những người quyết tâm phục vụ đất nước. Nó nhấn mạnh tầm quan trọng của “nợ công danh” như là một cách để chứng minh bản thân và đóng góp tài năng của mình cho sự phục vụ đất nước và quân chủ.

Các tác phẩm văn học có thể chỉ là một kiểu sách vở để nói cho có “khẩu khí”. Một số khác lại là tâm sự thật, day dứt máu thịt, khát vọng sống của con người trong thế hệ và thời đại của họ. Hình ảnh và khí phách của nhân vật trong tác phẩm cũng rất khác nhau, tạo ra sự rung cảm khác nhau ở người đọc. Ví dụ, Đặng Dung thể hiện vẻ bi tráng trong bài thơ của ông, còn Nguyễn Công Trứ là sự cao ngạo nhưng xót xa thân phận. Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão trong bài thơ này có một vẻ đẹp và khí phách riêng, đó là cái lẽ làm bài thơ qua nghìn năm vẫn còn xúc động lòng người.

Bài thơ là khẩu khí của cả một thời đại, thời “Hào khí Đông A”. Nhiều người trong thời Trần đã có những câu nói đầy ý nghĩa như Trần Thủ Độ, Trần Quang Khải và Trần Nhân Tông. Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão phản ánh tiếng nói của một người, của thế hệ trẻ mong muốn đóng góp sức mình trong công cuộc chống ngoại xâm.

Trong bài thơ của Phạm Ngũ Lão, điểm thứ hai là khát vọng công danh của ông được thể hiện qua bài thơ và minh chứng bằng chiến công của mình. Bài thơ này hùng tráng và chân thực, phù hợp với thời đại và cá nhân.

Sự hoà hợp, tương ứng giữa thời đại và cá nhân làm cho bài thơ hùng tráng mà chân thực.

Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân khí mạnh suốt sao ngưu.

Hình ảnh trong bài thơ phác họa bức tranh hoành tráng của sự nghiệp đánh giặc thời Trần. Múa giáo non sông trải mấy thu, ba quân khí mạnh suốt sao ngưu. Câu thơ này muốn dựng lại bối cảnh và hiện thực xã hội rộng lớn. Dù viết “cầm ngang ngọn giáo trấn giữ đất nước vừa mấy thu; ba quân dũng mãnh như hổ báo, khí thế nuốt được cả trâu” hoặc “nuốt sao Ngưu” thì câu thơ đều muốn tạo ra bối cảnh, phản ánh hiện thực xã hội rộng lớn. Đó là hình ảnh, bức tranh hoành tráng của cuộc chiến giành độc lập thời Trần. Phân tích bức tranh này, ta thấy nhiều tầng hình ảnh với cách thức “dựng tranh” rất nghệ thuật. Cả hai câu đầu này miêu tả hào khí đánh giặc của dân tộc thông qua hình ảnh “múa giáo”. Ba quân cùng múa giáo, cùng ra trận. Câu thơ dựng lên trước mắt ta hình ảnh “một tráng sĩ múa gươm” xung trận trên cái nền “ba quân đậy hào khí giết giặc”. Câu thơ tượng trưng nhưng lại rất thực, thể hiện sự đoàn kết và nỗ lực của mỗi cá nhân trong thời đại đó.

Hai câu thơ cuối chỉ tâm sự và suy nghĩ về việc Người tráng sĩ đã mất đi và không còn hiện lên nữa.

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

Có một quan niệm trong xã hội phong kiến rằng con trai nợ công danh phải trả. Công danh là nghề nghiệp và danh tiếng, thể hiện sự phân biệt giới tính nhưng không phải điều tiêu cực. Để theo đuổi công danh, người ta có thể học theo gương Vũ hầu – Gia Cát Lượng.

Phạm Ngũ Lão là nhà thơ anh hùng của họ Phạm, đã đóng góp và hy sinh nhiều nhất cho đất nước và dân tộc trong cuộc chiến bảo vệ đất nước. Tác phẩm của ông là tuyên ngôn cho thế hệ và thời đại, khích lệ các đội ngũ chiến sĩ. Bản dịch nghĩa cần được sửa lại để hiểu rõ ý khuyến cáo và khích lệ của tác giả.

Hai câu thơ ca ngợi sự đóng góp, hi sinh của những người anh hùng trong việc bảo vệ đất nước và dân tộc. Nó là một sự tuyên bố về lòng yêu nước mãnh liệt và tình cảm sâu sắc dành cho đất nước. Bài thơ này đã tạo ra một cảm giác về sự hào khí, niềm tự hào về quá khứ và nỗ lực của những người đã đấu tranh cho sự tự do và độc lập của quê hương.

Bài thơ được xây dựng với dung lượng nhỏ nhưng lại rất sức bao quát và đầy cảm xúc. Nó là một tác phẩm văn học đáng để trân trọng và giữ gìn. Với nội dung và hình thức đều được hoàn thiện và xuất sắc, bài thơ này đã trở thành một điển hình trong văn học trung đại.

Bài thơ cũng thể hiện rõ sự hoà hợp giữa thời đại và cá nhân, làm cho nó trở thành một tác phẩm văn học hùng tráng mà vẫn đầy chân thực. Nó được sáng tác trong một thời đại đầy rẫy những cuộc chiến tranh và cuộc đấu tranh cho độc lập, tự do của quê hương. Những người anh hùng trong bài thơ đã đóng góp rất nhiều cho sự nghiệp đó và được tôn vinh qua những câu thơ đầy cảm xúc này.

Điều đặc biệt của bài thơ này là sự hoàn chỉnh của nội dung và hình thức. Mỗi câu thơ đều được cân đối và tạo ra một hiệu ứng đặc biệt trên người đọc. Điều này càng làm cho bài thơ trở nên đầy ấn tượng và để lại sự ảnh hưởng lớn đối với người đọc.

Với những đặc điểm trên, không chỉ là một tác phẩm văn học đáng để trân trọng và giữ gìn, bài thơ còn là một đại diện xuất sắc cho văn học trung đại, với nội dung và hình thức đều rất hoàn thiện và đáng ngưỡng mộ.

Xem thêm: Mẫu kết bài cảm nhận, phân tích bài thơ Tỏ lòng hay nhất

3. Hình ảnh người trai thời Trần trong bài thơ Tỏ lòng ấn tượng:

Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi rằng Phạm Ngũ Lão là một tướng trong thời đại Trần, tham gia cả hai cuộc chiến chống lại Nguyên Mông. Ông vừa lo việc quân sự, vừa có tình yêu với sách và thơ. Bài thơ Thuật hoài của ông nổi tiếng và mang đậm dấu ấn của người đàn ông hùng dũng trong thời đại Trần.

Thuật hoài, Cảm hoài, Ngôn hoài là các thể thơ trữ tình phổ biến trong thơ ca thời trung đại. Chúng tỏ ra những ý nghĩ, tình cảm lớn của tác giả. Bài thơ này được viết trong thời điểm quyết chiến, quyết thắng của quân và dân đời Trần chống lại giặc Nguyên Mông. Tuy nhiên, chưa rõ đích xác hoàn cảnh sáng tác của bài thơ.

Bài thơ viết theo thể tứ tuyệt luật Đường, 4 câu, mỗi câu 7 âm tiết. Hai câu đầu dịch như sau:

Múa giáo non sông trải mấy thâu

Ba quân hùng khí át sao Ngưu.

Trong nguyên bản, hai câu này là:

Hoành sóc giang san cáp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu.

Từ “hoành sóc” được dịch là “múa giáo” không hoàn toàn đúng. Thực tế, nó chỉ đơn giản là cầm ngang giáo để bảo vệ vùng đất. Câu thơ trên miêu tả hình ảnh của người trai đời Trần và Phạm Ngũ Lão với tư thế hùng dũng, luôn kiên cường bảo vệ Tổ quốc và lập nên chiến công huy hoàng. Dẫu đã chiến đấu bao nhiêu năm tháng, họ vẫn giữ được sức mạnh và khí thế bất khuất.

Hình ảnh người tráng sĩ trở nên rực rỡ hơn nhờ sức mạnh của “ba quân”, biểu tượng cho thế hệ Phạm Ngũ Lão và dân tộc Đông A. Sức mạnh của “ba quân” được so sánh với sức mạnh khủng khiếp của hổ báo, mạnh đến nỗi có thể nuốt trôi cả trâu. Hình ảnh người tráng sĩ đại diện cho cá nhân, có vẻ đẹp hiên ngang vượt qua thời gian, cộng đồng và dân tộc. Cá nhân và cộng đồng, dân tộc có quan hệ hài hoà, tạo nên khí thế ngất trời của “ba quân”. Mỗi người đều tìm thấy bóng dáng mình trong hào khí chung của dân tộc. Đây là một thời đại đẹp của những người đẹp!

Phạm Ngũ Lão đã thành công phác hoạ tư thế của nhân vật trữ tình và dân tộc ta trong một thời điểm lịch sử với tầm vóc và quyết tâm lớn chỉ bằng hai câu thơ. Nhân vật trữ tình mang vẻ đẹp sử thi, tẩm vóc sử thi, trong khi Phạm Ngũ Lão cũng phát ngôn nhân danh cả dân tộc và thời đại.

Trong văn học trung đại của Việt Nam và Trung Quốc, hình ảnh người tráng sĩ cầm giáo và ba quân khí thế ngất trời thường xuất hiện. Một số tác phẩm như Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn hay Thập giói cô hòn của Lê Thánh Tông cũng miêu tả hình ảnh này. Trong Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, hình ảnh cũng thật kì vĩ nhưng chân thực và hiện thực hơn. Tại Hội nghị Bình Than, các bô lão Đại Việt cũng thể hiện tinh thần quyết chiến, quyết thắng vĩ đại của quân dân ta đời Trần. Mỗi binh sĩ thời ấy đều thích hai chữ “sát thát” (giết giặc Nguyên) vào cánh tay để khát vọng lập nhiều chiến công to lớn cho đất nước được thực hiện.

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.

Người trai đời Trần là những người có tư thế sẵn sàng chiến đấu và quan niệm nhân sinh tích cực. Lập công là điều quan trọng trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước. Mỗi con người đều có khao khát làm nên sự nghiệp và lưu lại tên tuổi cho hậu thế. Động lực này đã thúc đẩy nhiều người vượt qua những thử thách để lập nên những kì tích vang dội và đóng góp cho sự tiến bộ của toàn xã hội. Sau Phạm Ngũ Lão 6 thế kỉ, Nguyễn Công Trứ cũng khẳng định điều này.

Làm trai sống ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông.

Ông cha ta thường khích lệ cháu con: “Làm trai cho đáng nên trai – Xuống đông, đông tĩnh; lên đoài, đoài tan”. Đây là quan niệm nhân sinh tiến bộ trong truyền thống dân tộc.

Điểm đặc biệt của bài thơ của Phạm Ngũ Lão không chỉ nằm ở nội dung mà còn ở tác giả. Viên tướng làng Phù ủng là người có danh tiếng đánh đông dẹp bắc, tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Ông còn được phong chức Điện suý thượng tướng quân (1302) và được ban tước Quan nội hầu (1318). Tuy nhiên, Phạm Ngũ Lão vẫn cảm thấy mình còn nợ đời, còn phải “thẹn” khi nghe chuyện Khổng Minh Gia Cát Lượng – một nhân vật lớn lao trong sử thi. Chính ý thức về món nợ chưa trả xong với dân tộc và đất nước, cùng với sự khiêm tốn trước những nhân vật lẫy lừng trong sử sách đã tạo nên tầm vóc tuyệt vời của nhà thơ Phạm Ngũ Lão.

Xem thêm: Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão hay chọn lọc

Theo dõi chúng tôi trênDuong Gia FacebookDuong Gia FacebookDuong Gia TiktokDuong Gia TiktokDuong Gia YoutubeDuong Gia YoutubeDuong Gia GoogleDuong Gia Google
5/5(1
bình chọn
)

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com