Nhằm giúp các bạn học sinh có nhiều kiến thức và nắm vững nội dung bài học, bài viết dưới đây chúng minh gửi đến bạn đọc bài viết Soạn bài Tự tình 2 ngắn gọn: Tác giả tác phầm và bố cục? Cùng tham khảo nhé.
1. Tác giả Hồ Xuân Hương:
1.1. Tiểu sử:
Nhà thơ Hồ Xuân Hương sinh năm 1772 và mất năm 1822. Theo các tư liệu truyền thống còn lưu lại thì nhà thơ Hồ Xuân Hương quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, nhưng bà sống chủ yếu ở kinh thành Thăng Long.
Cuộc đời Hồ Xuân Hương nhiều tiếc nuối, nhiều éo le: hai lần lấy chồng nhưng đều là lẽ phải, để rồi cuối cùng vẫn một mình lẻ bóng. Hồ Xuân Hương xinh đẹp, thông minh, đi nhiều nơi, giao du với nhiều người (biết nhiều danh nhân như Nguyễn Du). Bà là một con gnuoiwf phóng khoáng, tài giỏi và có chí tiến thủ, có gia phong.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là một hiện tượng rất độc đáo: một nữ thi sĩ viết về phụ nữ, trào lộng mà trữ tình, giàu chất dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, đối tượng. Nổi bật trong thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói cảm thương người phụ nữ, sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ.
1.2. Sự nghiệp:
a.Các tác phẩm chính:
– Nữ sĩ còn có tập thơ Lưu Hương Ký (phát hiện năm 1964) gồm 24 bài chữ Hán và 26 bài chữ Nôm.
– Sáng tác của Hồ Xuân Hương có cả chữ Nôm và chữ Hán.
– Theo nghiên cứu, có khoảng 40 bài thơ được cho là của Hồ Xuân Hương.
– Nữ sĩ còn có tập thơ Lưu Hương Ký (phát hiện năm 1964) gồm 24 bài chữ Hán và 26 bài chữ Nôm.
b. Phong cách nghệ thuật:
– Hồ Xuân Hương là một hiện tượng rất độc đáo: nhà thơ nữ viết về phụ nữ, trào lộng mà trữ tình, thấm đẫm chất dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, hình ảnh.
=> Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương hay nhất
2. Tác phẩm Tự tình 2:
Thể loại: Thơ Đường luật.
Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: Lặng lẽ trong chùm thơ Tự tình gồm ba bài thơ của Hồ Xuân Hương.
Phương thức biểu đạt: Biểu cảm
Bố cục của tác phẩm
– Hai câu kết: nỗi buồn vô tận, niềm hi vọng khắc họa nỗi tuyệt vọng
– Hai cầu thực: nhấn mạnh nỗi cô đơn, tủi hờn của người phụ nữ
– Hai bài: Nỗi niềm tha thiết, kháng chiến của nhà thơ
– Hai câu kết: sự khó thở lại ập đến thật buồn.
Tóm tắt: Bài thơ đã nói lên bi kịch của tuổi trẻ và bi kịch của số phận. Xuân đi rồi xuân lại về, thời gian của thiên nhiên cứ tuần hoàn, nhưng tuổi trẻ của con người thì không bao giờ quay trở lại. Trong những hoàn cảnh như vậy, sự dịu dàng và lãng quên của tình yêu làm tăng thêm lòng thương xót. Khi rơi vào hoàn cảnh đó, có thể nhiều người sẽ không tránh khỏi tuyệt vọng, thậm chí buông xuôi, bỏ cuộc.
Giá trị nội dung:
– Tự tình (Đoạn II) thể hiện tâm trạng, thái độ của Hồ Xuân Hương: vừa xót xa, vừa xót xa trước số phận, vừa đấu tranh vươn lên nhưng rồi vẫn rơi vào bi kịch.
– Trước sự chớp nhoáng của số phận, người phụ nữ luôn khao khát hạnh phúc, vẫn muốn thoát ra khỏi nỗi ám ảnh thường trực do người đàn ông tạo ra. Sự phản kháng và khát vọng ấy ở Hồ Xuân Hương làm nên ý nghĩa nhân văn sâu sắc cho tác phẩm.
– Giá trị nghệ thuật: Ngôn ngữ thơ Nôm giản dị, giàu sức gợi, hình ảnh sắc nét, nghệ thuật tả cảnh độc đáo,…
Ý nghĩa nhan đề Tự tình:
Chủ đề Tự tình có nghĩa là bộc lộ tình cảm, cảm xúc; Hồ Xuân Hương đối diện với chính mình để tự vấn, để cảm thấy tủi thân.
Không chỉ có chùm ba bài thơ Tự tình, Hồ Xuân Hương còn có nhiều bài thơ bộc lộ cảm xúc, tâm trạng của nữ sĩ trước cảnh đời gian lao, đau thương. Tại sao?
Cho đến nay, vẫn còn nhiều vấn đề về cuộc đời (và thơ) của Hồ Xuân Hương chưa thể khẳng định một cách chắc chắn, vì không có tài liệu gốc để quay về. Tương truyền bà quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông ngoại là Hồ Phi Diễn, một nhà giáo nghèo, mẹ Xuân Hương là người may mắn. Từ khi lớn lên, Hồ Xuân Hương sống chủ yếu ở kinh thành Thăng Long.
Cô thông minh, sắc sảo nhưng đường tình duyên rất thất thường, trái ngang và gặp nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương hai lần lấy chồng, cả hai lần đều làm đúng (Tống Tộc và Phủ Vĩnh Tường). Hơn thế nữa, cả hai lần cô đều nông nổi, chia tay trong hạnh phúc ngắn ngủi khi tình xuân vẫn còn nồng nàn.
Hai lần thành nghĩa, hai lần mờ mịt, những nỗi niềm chất chứa trong lòng chỉ biết gửi vào thơ. Cả ba bài thơ Tự tình đều bộc lộ nỗi lòng đầy xót xa, day dứt của người phụ nữ khi tình yêu không thay đổi.
Xem thêm: Sơ đồ tư duy bài Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương dễ đọc dễ hiểu
3. Nội dung chi tiết tác phẩm Tự tình 2 – Hồ Xuân Hương:
3.1. Nỗi cô đơn, đau thương và khát khao hạnh phúc của nhân vật trữ tinh:
Đoạn thơ mở đầu bằng một trạng thái tình huống đặc biệt:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
– Thời gian: đêm
– Không gian: trống trải, mờ ảo, vang vọng tiếng trống canh gác
=> Câu đầu bài thơ gợi nỗi buồn man mác. Nỗi buồn gợi lên từ sự tĩnh lặng của đêm. Tiếng trống không gần (vang) mà vẫn nghe nhịp vàng, gấp gáp, đó là vì tiếng trống gợi thời gian trôi, gợi sự tàn tạ và đó là tiếng trống được cảm nhận theo tâm trạng. Chính vì thế trong nhịp trống dồn dập, liên hồi, ta như nghe thấy cả bước tàn phá của thời gian và sự việc bởi trong tâm trạng nhân vật đang trữ tình.
Câu thơ thứ hai gợi cảm giác bẽ bàng mãnh liệt hơn:
– Đảo ngữ như một toan tính tinh vi nhằm tô đậm thêm nỗi nhục quốc thể. “Amory” là một con hổ, nhẫn tâm, không có cảm giác. Ngoài ra, hai từ “đỏ mặt” (chỉ gương mặt thiếu nữ) đối lập với từ “the” thật là rẻ rúng, dở hơi. Cái “hồng nhan” tẩm nước ngọt không chỉ gợi hương thơm mà nồng hơn, có lẽ là ở vị đắng. Câu thơ chỉ nhắc đến vẻ đẹp dung nhan mà còn gợi đến sự trơ trẽn của chủ thể trữ tình. Nhịp câu thơ 1/3/3 trùng điệp, trích dẫn, khoét sâu nỗi tủi nhục khôn tả.
– Tuy nhiên, câu thơ không chỉ nói về nỗi đau mà nó còn thể hiện bản lĩnh của nhân vật trữ tình. Bản lĩnh ấy có thể hiện ngay ở chữ “ngã” như một nhận thức như vậy. Từ “trượt” kết hợp với “nước không” có thể cho thấy sự bền vững của các chức năng và sự kiện. Nó làm ta nhớ đến một câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan trong bài Thăng Long hoài cổ (“Đá còn độc trăng non”).
– Nếu như hai câu kết có nhiệm vụ dẫn dắt người đọc vào hoàn cảnh tâm trạng thì hai câu kết thực sự nói rõ hơn về hiện thực, hiện thực của Hồ Xuân Hương:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trâng bóng xế khuyết chưa tròn.”
– Cảnh tả tình của Xuân Hương được thể hiện qua một hình ảnh chứa đựng hai biến thể bi tráng: Trăng sắp tàn (bóng xế) mà còn “chưa tròn”. Cùng với Xuân Hương, thanh xuân trôi qua nhưng nhân duyên không trọn vẹn.
– Hương rượu gợi nỗi cô đơn, tủi nhục của phận người bạc mệnh.
– Cụm từ “say mới tỉnh” gợi cái vòng luẩn quẩn, tình yêu trở thành trò đùa của đứa trẻ.
3.2. Tâm trạng tuyệt vọng của cảnh đời lẽ mọn:
Hình ảnh thiên nhiên trong hai bài văn đáng suy ngẫm cũng mang nỗi buồn thương của con người:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
– Những sinh vật bé nhỏ như đám rêu kia vẫn không chịu số phận bé nhỏ, thấp hèn, không chịu yếu đuối. Mọi thứ dường như đang cố gắng bứt phá. Nhất định phải mọc: rêu mọc “xẻo ngang mặt đất”, đá lại phải vững chắc hơn, lại phải sắc bén để “đập mây”.
– Nghệ thuật đảo ngữ làm nổi bật nỗi bất bình của đá và người và cũng là nỗi bức bối của tâm trạng con người.
– Kết hợp với việc sử dụng các động từ mạnh (xiên, đâm) với các bổ ngữ độc đáo (ngang, chẻ) thể hiện rõ sự ương ngạnh, ngang ngạnh => Đá, xù như thể phẫn uất, như thể chống cự quyết chiến với quá trình biến đổi.
=> Có thể nói, trong cảnh bi đát nhất, thơ Hồ Xuân Hương vẫn chứa đựng sức mạnh của một sức sống, một khát vọng.
– Hai câu kết thúc là tâm trạng chán chường, buồn bã:
“Ngán nỗi xuân di xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.”
– “Ngán” là chán, là chán. Xuân Hương chán cảnh đời bạc bẽo, tủi nhục xuân qua xuân lại, hóa kiếp lưu lạc trong mờ ảo như chuyện tình của người.
– Từ xuân vừa có nghĩa là mùa xuân, vừa là mùa xuân. Với thiên nhiên, xuân đi rồi xuân lại, nhưng với con người, xuân qua không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” trong câu “xuân đến xuân lại” cũng có hai nghĩa khác nhau. “Return” đầu tiên là thêm lại, trong khi “return” thứ hai có nghĩa là quay lại. Xuân về mà xuân qua, đó là căn nguyên sâu xa của phiền muộn.
– Ở câu thơ cuối, nghệ thuật tăng tiến càng làm cho nghịch cảnh của người lưu ly càng thêm rối rắm: mảnh tình – sẻ – bé – con. Vườn Tình – Đã nhỏ, đã nhỏ, đã dở dang lại còn phải “sẻ chia” nên hầu như chẳng còn lại gì (con nhỏ) nên càng đáng thương, đáng thương => Câu thơ diễn tả hết nỗi lòng của người phụ nữ duy nhất trong xã hội xưa, khi cảnh vợ chồng ân ái với nhau đã không còn xa lạ với họ.
Xem thêm: Phân tích 2 câu kết bài Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương siêu hay