Cuộc đời, phong cách và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - DG - Cuộc đời, phong cách và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du

Cuộc đời, phong cách và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du

Bài viết dưới đây là khái quát Cuộc đời, phong cách và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du giúp bạn có thêm những tài liệu để phục vụ cho các tiết học ngữ văn đạt được hiệu quả cao

1. Tiểu sử cuộc đời:

Nguyễn Du (tự Như Hiền; 1809–1868) là một danh thần nhà Nguyễn, đã hy sinh trong trận chống quân Pháp tấn công đồn Chí Hòa. Ông cũng là anh trai của danh tướng Nguyễn Tri Phương

Ông sinh ngày 21 năm Kỷ Tỵ (1809), tại làng Dương Long tức Chi Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Thuở nhỏ ông thông minh hiếu học. Năm 1837, ông đỗ Tú tài, năm Đinh Dậu, Thiệu Trị đỗ Cử nhân năm Tân Sửu 1841. Năm sau (Nhâm Dần 1842), Đình đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân Tam Giáp.

Năm 1843, ông được bổ làm Biên tập Nội các, năm sau thăng Tư soạn, năm 1845 được bổ làm Tri phủ Tân An ở Gia Định, năm 1847 lại chuyển về làm Tri phủ Quảng Hóa, Thanh. tỉnh Hòa. Cùng năm đó, cha ông qua đời, ông phải về quê chịu tang. Năm sau (1848), ông được bổ làm Tri huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

Năm 1851, ông được thăng Thị Độc hiền sĩ kiêm dạy học ở Kinh Diên Tòa. Năm 1852, ông làm Giáo sư học sĩ. Cùng năm đó, ông được cử đi công tác Trung Quốc. Sau khi đi sứ về, ông được thăng Hồng Lộ tự khanh, thăng Chưởng cơ Bộ Lại, đến Nội các, làm quan trong triều

Năm 1856, một tàu chiến của Pháp đến Đà Nẵng, ông được cử vào giúp Tổng đốc Quảng Nam Đào Trí đánh giặc. Năm 1860, thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định, ông cử Gia Định làm Đốc quân thứ để trông coi việc quân.

Ngày 16 tháng Giêng năm Tân Dậu (25-2-1861), Trung tướng Hải quân Pháp làm Chỉ huy tập kích đồn Chí Hòa do Nguyễn Duy và Nguyễn Tri Phương trấn giữ. Trước áp lực của quân Pháp, ông đã chiến đấu dũng cảm và hy sinh trong một lần giao tranh với Tôn Thất Trị. Riêng Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển bị thương. Cuối cùng, Nguyễn Tri Phương rút về Biên Hòa.

Sau khi ông mất, triều đình truy tặng Bình Bộ Tả tri phủ và thờ tại đền Trung Nghĩa, Trung Hiếu, em trai là Nguyễn Tri Phương và cháu là Nguyễn Lâm.

2. Cuộc đời của Nguyễn Du:

Ông quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh ra và trải qua tuổi thơ ở Thăng Long. Ông thuộc dòng dõi anh em: cha là Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, làm hầu cho vua Lê; Mẹ là Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh Bắc (Nguyễn Nghiễm có 8 vợ và 21 người con). Người em cùng cha khác mẹ (con gái chính) là Toàn Quận công Nguyễn Khản, làm quan Tham Tùng, Thái Bảo trong triều.

Năm 1771, ông cùng gia đình tướng quân Nguyễn Nghiễm dời về làng Tiên Điền

Năm 1775, khi mới 10 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cha.

Năm 1778, mười ba tuổi, mồ côi mẹ, ông phải vào Thăng Long ở với anh cả là Nguyễn Khản. Ít năm sau, Nguyễn Du về làng Tiên Điền ở với chú là tiến sĩ Nguyễn Hành.

Năm 1783, Nguyễn Du đi thi ở trường thi Nghệ An và đỗ Tam trường. Vì có thể không biết gì nên ông không tiếp tục đi thi mà đi nhận chức võ quan ở Thái Nguyên, bên cạnh người cha nuôi vừa mới qua đời.

Năm 1789, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc, đại thắng quân Thanh. Nguyễn Du vì cho rằng quân phong kiến trung nghĩa nên đã từ chối làm quan cho nhà Tây Sơn.

Từ năm 1789 đến năm 1795, ông sống ở Thái Bình – quê vợ.

1796: Nguyễn Du định vào Gia Định phò tá chúa Nguyễn thì bị bại lộ, bị Tây Sơn bắt giam 3 tháng

Có thể lúc này Nguyễn Du đã thai nghén Truyện Kiều; Năm ấy Nguyễn Du đúng 30 tuổi (“Trải qua một lần bể dâu” – một bể dâu tính bằng khoảng 30 năm [2] ).

Nhưng theo giáo sư Nguyễn Lộc ( “Từ điển văn học” tập II – NXB Khoa học xã hội, 1984) trang 455 viết: “Đoạn Tân Thanh (khu vực trường: khách tự nhiên; Tân Thanh: tiếng tân) là một truyện thơ Nôm viết thể lục bát, dựa trên tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc, có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ (1814-2020), Nguyễn Du viết trước khi đi sứ, có thể thời Cai Bạ ở Quảng Bình (1804-09), thuyết về sau được nhiều người chấp nhận” .

Từ 1797 đến 1804: Nguyễn Du lánh nạn ở Tiên Điền.

Khi Nguyễn Phúc Ánh hất đổ nhà Tây Sơn Nguyễn Quang Toản, bèn mời Nguyễn Du ra làm quan; anh mãi mãi nhưng không vì thế mà thoát khỏi lửa. Năm 1805, ông vào Huế làm quan với nhà Nguyễn và được thăng Đông các Giáo thụ, tước Du Đức Hầu. Năm 1813, Thang Cần Chánh Văn Miếu được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc. Sau khi về nước, năm 1815, ông được thăng Thượng thư Tham tri.

Con đường binh nghiệp của Nguyễn Du với triều Nguyễn thực sự có những nỗi niềm. Ông thăng tiến nhanh chóng và giữ những chức vụ quan trọng, nhưng ít khi vui vẻ, thường u sầu và không muốn.

Theo Đại Nam Liệt Truyện: “Nguyễn Du là người đa nghi, tự phụ, nhưng bề ngoài tỏ ra kín đáo, cung kính, mỗi khi vào cung vua, lại tỏ ra kiêu căng như không biết nói gì. …”

Năm 1820, Minh Mạng lên ngôi, lại cử ông đi truyền đạo, nhưng lần này chưa kịp nghỉ thì ông đột ngột qua đời.

Đại Nam Liệt Truyện chép: “Lúc đau nặng, không chịu uống thuốc, bảo người nhà cụt tay rồi, lạnh rồi, nói “ừ” là chết, không gì cản nổi”.

3. Tác phẩm tiêu biểu:

Nguyễn Du là nhà thơ của dân tộc, sống hết lòng vì nước, chan chứa tình yêu thương con người, khát vọng cháy bỏng về một cuộc sống thanh bình cho dân tộc, đất nước. Các tác phẩm của ông có thể so sánh với văn học nước ngoài. Ở cấp độ nào, ai cũng cảm nhận được tính nhân văn, thấy được tầm quan trọng của đồng tiền và vật chất trong mỗi câu thơ.

Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm văn học bất hủ bằng cả chữ Hán và chữ Nôm.

Ngoài Truyện Kiều nổi tiếng ra, Nguyễn Du còn để lại

– Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh

– Văn Tế Sống Hai Cô Gái Trường Lưu

– Thác Lời Trai Phường Nón (bằng chữ Nôm)

Ba tập thơ chữ Hán điển hình

– Thanh Hiên Thi Tập

– Nam Trung Tạp Ngâm

– Bắc Hành Tạp Lục

Các bài thơ khác:

– Cảm Hứng Trong Tù

– Đầu Sông Chơi Dạo

– Đứng Trên Cầu Hoàng Mai Buổi Chiều

– Đêm Đậu Thuyền Cửa Sông Tam Giang

– Đêm Rằm Tháng Giêng Ở Quỳnh Côi

– Lưu Biệt Anh Nguyễn

– Mộ Đỗ Thiếu Lăng Ở Lôi Dương

– Miếu Thờ Mã Phục Ba Ở Giáp Thành

– Ngày Thu Gởi Hứng

– Nói Hàn Tín Luyện Quân

– Người Hát Rong Phủ Vĩnh Bình

– Ngồi Một Mình Trong Thủy Các

– Ngựa Bỏ Bên Thành

– Ngày Xuân Chợt Hứng

– Long Thành Cẩm Giả Ca

– Tranh Biệt Cùng Giả Nghị

– Qua Sông Hoài Nhớ Thừa Tướng Văn

–  Xúc Cảm Đình Ven Sông

–  Viếng Người Con Hát Thành La

4. Phong cách sáng tác của Nguyễn Du:

Sống giữa cảnh đất nước gặp nhiều thiên tai, khó khăn, thơ văn Nguyễn Du nhìn chung đã phản ánh được sự tàn bạo của xã hội phong kiến bấy giờ. Bằng ngòi bút sắc sảo của mình, ông đã khắc họa những bất công, sự chà đạp lên người lao động, đòi quyền sống của con người.

Nguyễn Du là người tài hoa, thông thạo nhiều thể thơ chữ Hán từ thơ lục bát, năm chữ, bảy chữ… nên đã vẽ nên một bức tranh truyền cảm bằng ngôn từ đề cao quyền sống, uy quyền. tự do và khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.

Nguyễn Du là người đầu tiên “thấy” được thân phận người phụ nữ có nhan sắc, tài hoa nhưng phải sống trong giàu sang, toan tính. Đường lối sáng tác của Nguyễn Du chủ yếu đề cập đến đời sống – thế sự.

Thơ, truyện của Đại thi hào Nguyễn Du luôn rực rỡ sắc màu, tràn đầy sức sống, giàu đường nét. Tác phẩm chữ Hán của ông nhiều nhưng mãi đến năm 1959 mới được các nhà Nho Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm và dịch.

5. Truyện Kiều – Tác phẩm tiêu biểu nhất của Đại thi hào Nguyễn Du:

Truyện Kiều là tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Du, nguyên tác có tựa là “Đan trường tân thanh”. Đây là tác phẩm thơ Nôm Lục Bát được viết dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân Trung Quốc. Mượn bối cảnh xã hội Trung Quốc vào giữa thời Minh, Truyện Kiều là một bức tranh rộng lớn về cuộc sống của thời đại mà nhà thơ đang sống.

Truyện Kiều gồm 3.254 câu thơ, kể về cuộc đời 15 năm lưu lạc, lênh đênh của Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn phải bán mình chuộc cha, rơi vào cảnh “Hai lần thanh khiết, hai lần truân chuyên”. sắc đẹp”. bị các thế lực phong kiến giày xéo, chà đạp.

Về phương diện hiện thực, tác phẩm đã vạch trần bộ mặt của xã hội phong kiến bất công, tàn bạo. Đồng thời cũng phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam.

Về giá trị nhân đạo, Truyện Kiều nổi tiếng với tình yêu thương vị tha cao cả, khát khao công lý và vẻ đẹp con người. Nguyễn Du đã thể hiện ước mơ đẹp đẽ về một tình yêu tự do, trong sáng và thủy chung trong một xã hội mà quan niệm về tình yêu và hôn nhân còn rất hà khắc. Bên cạnh đó còn là tiếng nói lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người điển hình qua các nhân vật như Mã Giám Sinh, Tú Bà,… Đó còn là sự tàn phá, hủy hoại đồng. Đồng tiền Trong khi thằng bạn bất lương thì tàn bạo, nó có quyền đổi trắng thay đen, biến con người thành món hàng để mua bán và chà đạp.

Về giá trị nghệ thuật, Nguyễn Du đã kết hợp tài hoa ngôn ngữ bác học với ngôn ngữ bình dân; Tiếng Việt và thể thơ lục bát dân tộc đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật thơ ca, là kết tinh của những sáng tạo văn học nghệ thuật dân tộc về ngôn ngữ và thể loại. Nghệ thuật trần thuật trong Truyện Kiều có những bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật kể chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đến khắc họa tính cách nhân vật và miêu tả tâm lí con người. Người ta thường nói “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”.

Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của văn học Việt Nam, ghi dấu ấn cho văn học Việt Nam trên thi trường quốc tế. Tính đến nay, Truyện Kiều đã được dịch sang thứ 30, trong đó tiếng Pháp trên 15 bản, tiếng Anh và tiếng Trung trên 10 bản, tiếng Nhật 5 bản.

Theo dõi chúng tôi trênDuong Gia FacebookDuong Gia FacebookDuong Gia TiktokDuong Gia TiktokDuong Gia YoutubeDuong Gia YoutubeDuong Gia GoogleDuong Gia Google
5/5(1
bình chọn
)

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com