Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai chọn lọc siêu hay - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - DG - Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai chọn lọc siêu hay

Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai chọn lọc siêu hay

Truyện ngắn “Làng” là một tác phẩm ấn tượng của nhà văn Kim Lân. Bài viết dưới đây là một số mẫu Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai chọn lọc siêu hay. Các bạn cùng tham khảo để có thêm nhiều kiến thức và tài liệu ôn tập nhé:

1. Dàn ý Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai chọn lọc siêu hay:

1.1. Mở bài:

Đôi nét về tác giả Kim Lân và truyện ngắn Làng: Nhà văn Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ông am hiểu và gắn bó sâu sắc với cuộc sống nông thôn, Làng là truyện ngắn xuất sắc của ông.

Dẫn dắt thảo luận: diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Lặng lẽ – một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Kim Lân.

1.2. Thân bài:

a. Quan niệm nhân vật và tình huống éo le đã làm thay đổi tâm trạng ông Hai:

– Nhân vật ông Hai, một người nông dân yêu làng, tự hào về làng quê, mọi vui buồn của ông đều xoay quanh làng chợ Dầu.

– Nhân vật bị đặt vào một tình huống khó xử, thử thách để bộc lộ tâm trạng, tình yêu làng: ở nơi ở rải rác, ông Hai nghe tin làng Dầu theo giặc sang làm ăn gian dối.

b. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai:

– Đang vui mừng thắng trận khắp nơi thì ông Hai nghe tin dữ: làng Chợ Dầu theo giặc làm ăn gian dối nước Việt, ông ngạc nhiên và bối rối (Cổ ông lặng đi như không thở được).

– Cố lấy lại bình tĩnh, ông hỏi tại sao ông không thể tin vào những chiếc váy mình vừa nghe, nhưng người phụ nữ khẳng định chắc nịch khiến ông Hải ngất xỉu, lúng túng, ngượng ngùng (ông cố giả vờ đánh rơi chai, đánh trống lảng). và rời đi).

– Về đến nhà, ông ngậm ngùi lo lắng khi nhìn thấy các con (nước mắt ông cứ chảy, chúng nó cũng là con của làng Việt sao?): Niềm tin và sự nghi ngờ giằng xé trong tâm trạng ông Hai.

– Nghe tiếng người Việt “cúi mặt bước đi” lòng anh xốn xang nên không bối rối ra mặt.

– Mỗi khi anh thấy sợ, khi thấy đám đông xúm lại nhắc đến hai chữ Cam Mang, Việt Nam, anh lại thấy áy náy.

Tác giả thể hiện cụ thể nỗi lo lắng, sợ hãi thường xuyên đến ám ảnh ông Hai, trong tâm trạng ông luôn thường trực một nỗi buồn tủi, hổ thẹn trước cảnh ông đi theo giặc.

– Tình làng, nghĩa xóm trong anh có mâu thuẫn lớn, lận đận. Hai sát thủ đã chọn đi theo cách mạng: “Làng yêu nhau thì yêu thật, nhưng làng theo giặc thì phải kết thù”.

+ Lòng yêu nước bao la bao trùm tình yêu làng, dù kiên quyết đến đâu, lòng ông vẫn chất chứa ngậm ngùi, tủi hổ.

+ Anh Hải tiếp tục rơi vào bế tắc, tuyệt vọng khi chủ nhà lên tiếng đuổi gia đình anh đi

– Đoạn văn miêu tả nỗi đau sâu sắc, chân thành của nhân vật ông Hai.

– Anh Hai chỉ biết tâm sự cùng đứa con chưa hiểu đời. Lời ông nói với con thực chất là lời để ông bày tỏ tấm lòng: nỗi nhớ quê hương, tình yêu làng quê, trung thành với kháng chiến, cách mạng.

– Khi nghe tin cải chính, ông Hai như sống lại, mọi muộn phiền, đau buồn, tức giận đều tan biến, thay vào đó là niềm vui, hạnh phúc hiện rõ trên nét mặt, cử chỉ, tiếng cười của ông. dẫn chứng trong văn bản).

c. Miêu tả thành công tâm trạng nhân vật:

– Đặt tâm trạng nhân vật vào tình huống thử thách để khai thác chiều sâu của tâm trạng.

– Thể hiện trạng thái nhân vật tài tình, cụ thể qua đối thoại không lời, độc thoại, độc thoại nội tâm qua suy nghĩ, hành động, cử chỉ.

– Ngôn ngữ giàu tính khẩu ngữ, lời nói của người nông dân, thế giới tinh thần của người nông dân

1.3. Kết bài:

– Diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai được thể hiện qua nhiều cung bậc tinh tế, chân thực và đa dạng: miêu tả đúng, gây ấn tượng mạnh về sự kiện ám ảnh, vận hạn trong tâm trạng nhân vật.

– Anh Hai là một người mạnh mẽ, say tình làng chơi, vẽ mặt ra thói khoe làng, qua những tình huống thử thách tình cảm anh càng trở nên sâu sắc.

– Cho thấy Kim Lân có cái nhìn sâu sắc về người nông dân và thế giới tinh thần của họ.

2. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai chọn lọc siêu ý nghĩa:

Kim Lân là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ông viết ít, nhưng tác phẩm nào cũng sâu sắc, gửi gắm những nét đẹp bao đời nay của con người Việt Nam tốt đẹp. Truyện ngắn Làng là một tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu cho giọng điệu của Kim Lân. Bằng giọng văn giản dị, đằm thắm, Kim Lân đã thể hiện sâu sắc những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp qua nhân vật ông Hai, người nông dân hiền lành. có tình yêu sâu sắc.

Làng được viết và đăng trên báo Văn nghệ năm 1948 – giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong thời kỳ này, nhân dân thực hiện chủ trương của chính phủ: Kêu gọi đồng bào tản cư, đồng bào vùng tạm chiếm ra chiến khu để cùng nhau chiến đấu lâu dài.

Có thể nói, trong số các nhà văn trước và sau cách mạng, Kim Lân là nhà văn sống gần gũi và thấu hiểu nhất đời sống của người nông dân Việt Nam. Anh không chọn những đề tài lớn để thử bút mà đi vào những đề tài nhỏ nhặt nhưng không kém phần gây xúc động trong lòng người. Ở đó, anh nhìn thấy vẻ đẹp trong sáng, giản dị trong tâm hồn người nông dân bị cuộc sống hối hả che mờ. Ở đó, Người thấy được sự chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam trước cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Những năm 1948, phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp dâng cao nhưng nhân dân chưa thực sự thuộc về cách mạng. Đến khi cách mạng thực sự mang lại quyền lợi cho vùng giải phóng, nông dân hết lòng tin yêu, ủng hộ. Kim Lân xuất hiện và nhanh chóng tóm tắt tình hình. Anh ấy đã có thể tạo ra những biến đổi tích cực bằng sự tin tưởng và đánh lừa niềm tin tưởng tượng đối với nhiều đối tượng. Có thể nói, với truyện ngắn Làng, Kim Lân đã góp tiếng nói đồng tình, ủng hộ cách mạng với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng dân tộc.

Ý tưởng của truyện được cụ thể hóa qua hình tượng nhân vật ông Hai. Ông Hai là một nông dân hiền lành, chân chất. Ông yêu và tự hào về làng Chợ Dầu của mình. Ông yêu từng gốc cây, từng con đường, từng viên gạch, từng lối đi và tất cả những gì làng Chợ Dầu có. Ông yêu mến những người dân làng Chợ Dầu hiền lành, thân thiện và dũng cảm.

Anh hình dung tất cả đều gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của mình, hễ ai chê cái này chê làng nọ là anh không bằng lòng. Anh yêu làng quê như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, kính yêu mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ nhìn cái cách ông Hai khuấy động và kể về làng mình thì sẽ thấy. Mỗi hình ảnh của làng quê đều mang đến cho ông một tình yêu vô hạn. Đó cũng chính là tình cảm vốn có từ ngàn đời nay của người nông dân Việt Nam gắn bó máu thịt với quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của tổ tiên. Tuy nhiên, ở nhân vật ông Hai lại là một tình cảm đặc biệt và rất lịch sự.

Vì quá yêu làng nên ông không chịu rời làng đi tản cư. Anh rất thích cảnh tha hương cầu thực. Lúc cùng gia đình buộc phải tản cư, hắn rất buồn bã, bụ bẫm bẩm sinh, ít nói, ít cười, lúc nào cũng rác rưởi.

Nỗi niềm của anh Hải cũng là nỗi niềm của nhiều nông dân lúc bấy giờ. Họ không muốn rời làng, không muốn thay đổi. Nếu kháng chiến tiếp tục chiến đấu, tại sao bạn phải rời đi? Họ quyết bám trụ dù bị gông cùm, áp bức, giết hại. Đối với họ, thay đổi nơi ở, bỏ lại mồ mả tổ tiên là chuyện trọng đại. Làng nước là nơi linh thiêng, không thể nói một sớm một chiều là bỏ được. Tuy nhiên, để ủng hộ kháng chiến, ủng hộ cách mạng, gia đình ông cũng tản cư đến nơi ở mới, nhưng tình yêu làng quê vẫn còn lãng phí trong ông.

Ở nơi yên bình, anh dần hiểu ra mọi chuyện. Bây giờ, không còn những anh em yêu làng mà còn cả cách mạng, kháng chiến. Từ chỗ miễn cưỡng tản cư, đến yêu mến rồi nhiệt tình ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến là một sự thay đổi mạnh mẽ trong tình cảm của người nông dân. Ông Hai đã nhận ra kẻ thù rất tàn bạo, chúng tàn phá xóm làng và cuộc sống của người dân. Anh ấy muốn tham gia chiến đấu với anh em của mình, nhưng ở tuổi này, anh ấy không thể.

Nhưng anh không muốn đứng ngoài cuộc, anh muốn làm gì đó hơn là ngồi yên nhìn trái tim mình như muốn nổ tung. Hàng ngày Bác đi nghe báo, đi nghe nói chuyện, bàn luận về những sự kiện nổi bật của kháng chiến… Tuy thất học, mù chữ nhưng Bác thích nói chữ, thích nói chuyện chính trị, mặc dù bác không. Hiểu rất rõ các thuật ngữ chính trị, thích kể chuyện để tạo không khí cách mạng. Và ông cho rằng đó là cách ông yêu nước, yêu kháng chiến, ông muốn cuộc chiến của dân tộc nằm trong trái tim mình, không thể tách rời.

Từ chuyện làng, ông chuyển sang chuyện kháng chiến, chuyện đánh tây. Tình yêu làng trong ông vẫn lớn lao nhưng nay đã hòa quyện với tình yêu cách mạng, yêu kháng chiến, yêu đất nước. Tình cảm riêng tư của Hải hòa quyện với tình yêu đất nước. Yêu làng cũng là yêu nước. Di tản tức là ủng hộ cách mạng, tức là ủng hộ sự nghiệp giải phóng dân tộc mà đường lối kháng chiến đã đề ra. Có thể anh Hai chưa nhận ra, nhưng lòng yêu nước của anh đã sớm và sâu đậm. Kim Lân đã rất bình tĩnh khi thể hiện sự chuyển biến thầm lặng nhưng mạnh mẽ này.

Việc ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc là một phép thử lớn cho tình yêu làng, yêu nước của ông. đồng thời cũng xác định lập trường cách mạng của nông dân trước hoàn cảnh khó khăn của đất nước. Anh Hải đã chết lặng, chết lặng rồi cảm thấy xấu hổ, phẫn uất và tức giận khi nghe tin dữ đó.

Với anh, điều đó khiến người ta không thể chấp nhận được, không thể chấp nhận được. Từ đỉnh cao của niềm vui, niềm tin của Hải rơi xuống vực thẳm đau đớn, xấu hổ vì tin quá bất ngờ. Làm sao làng chợ Dầu theo đuổi được? Làm sao dân chợ Dầu có thể phản ông, phản bội cách mạng được? Khi lấy lại được chút bình tĩnh, anh cố không tin vào tin đó

Nhưng rồi những người tản cư kể nhiều quá, cho rằng họ “chỉ ở dưới” khiến anh không thể tin được. Niềm tự hào của Ngôi làng sau đó đã vỡ vụn trước tin sét đánh xuống làng. Thứ mà anh yêu quý nhất giờ đã quay lưng lại với anh. Anh không chỉ xấu hổ với người thân mà còn cảm thấy mình đánh mất đi hạnh phúc của chính mình, cuộc đời anh như chết đi sống lại.

Trạng thái của câu chuyện đã đặt nhân vật vào sự giúp đỡ và đấu tranh rất nhiều. Nó là “chất xúc cảm” có khả năng thanh lọc những tình cảm cao quý của con người. Trước vận mệnh của đất nước và sự thay đổi mạnh mẽ của dân tộc buộc họ phải chuyển hướng để hướng tới nhiệm vụ chung. Tuy nhiên, điều đó không dễ dàng và rất khó phát hiện. Chẳng có gì sai khi Hải yêu làng cả, thậm chí rất đẹp. Nhưng lúc này, đất nước đang cần một tình cảm cao cả hơn, đó là lòng yêu nước, để chung tay vào cuộc chiến chống lại kẻ thù.

Kể từ khi biết tin, trong đầu Hải chỉ toàn tin dữ, nó thấm thía, thành nỗi ám ảnh, ngày này qua ngày khác. Nghe tin bạn bè ở Việt Nam lòng anh nhói đau. Bao nhiêu điều tự hào về làng, về quê hương như bến đỗ trong tâm hồn người nông dân rất hiền lành. Anh cảm thấy như chính mình mang trong mình nỗi ám ảnh của một kẻ lưu manh bán nước cho giặc. Và những đứa con của ông sẽ mang nỗi nhớ kinh khủng đó.

Đó là trách nhiệm của một công dân tốt, của một người cha tận tụy với con cái. Tuy không trực tiếp phản bội cách mạng, nhưng sự phản bội ấy gắn liền với cội nguồn của ông. Người Việt sống mãi có tình có nghĩa, quê hương gốc là cái nôi của niềm tự hào, nay mang tiếng theo giặc. Nhưng nỗi nhục của ông Hai là một nỗi nhục cao cả, khi lòng tự trọng của ông bị đập tan và bị phản bội. Nhà văn Kim Lân đã rất dũng cảm khi khắc họa điều này. Sự thay đổi trong tình cảm tốt đẹp của người nông dân được trân trọng, diễn ra từ và rất hợp lý, đúng đắn, được phát triển từ nhận thức cao và khẳng định sâu sắc.

Nỗi xấu hổ của Hải những ngày sau đó đã khẳng định rõ điều này. Anh Hải rơi vào trạng thái bế tắc và tuyệt vọng khi nhìn về tương lai. Anh không biết đi đâu, không thể về làng, bởi về làng lúc này đồng nghĩa với Tây, phản bội kháng chiến. Ở không xong, vì chủ nhà đã đánh tiếng xua đuổi. Tôi cũng đi thi biết đi đâu vì ai chưa tham gia dân làng Chợ Dầu đã phản bội.

Nếu như trước đây, tình yêu làng, yêu nước hòa quyện vào nhau thì nay, ông Hai buộc phải có sự lựa chọn. Quê hương và Tổ quốc, bên nào nặng hơn? Đó không phải là điều đơn giản bởi với anh, làng Chợ Dầu đã trở thành một phần cuộc sống, không dễ buông bỏ; và cách mạng là cứu cánh của gia đình anh, giúp gia đình anh thoát khỏi cảnh nô lệ.

Cuối cùng ông quyết định: “Làng thì yêu thật, làng theo Tây thì phải ghét”. Sau nhiều lần lập trường, phán đoán, tìm lý do, cuối cùng ông đã đứng về phía cách mạng, ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến. Tình yêu lãng mạn nồng nàn, tình yêu không thể hôn mê hơn tình yêu đất nước.

Đó là biểu hiện của nét đẹp trong tâm hồn người Việt Nam, khi cần họ sẵn sàng gác lại tình cảm riêng tư để hướng tới tình cảm chung của cả cộng đồng. Họ có thể hy sinh tình riêng vì cách mạng vì nước, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng dân tộc.

Bài thuyết trình của anh Hải với các em thật cảm động. Dù đã quyết định nhưng ông Hải không khỏi đau lòng, uất ức. Và khi tình tiết của câu chuyện lên đến cao trào, cảm xúc lên đến cao trào, Kim Lân lại để nó bùng nổ một lần nữa để cởi trói cho nhân vật mình yêu. Đúng lúc ông Hai quyết định rõ lập trường của mình thì tin làng Chợ Dầu phản bội được cải chính. Nỗi đau khổ của Hải trong những ngày qua cũng lớn như niềm háo hức, sung sướng của anh. Anh muốn nhảy cẫng lên, muốn hét thật to để giải tỏa những cảm xúc tức giận, kìm nén và tủi nhục bấy lâu nay, muốn lên tiếng để minh oan cho mình.

Cách xử lý cốt truyện tài tình cho thấy sự đồng cảm sâu sắc và tình yêu thương lớn lao của nhà văn đối với những người nông dân hiền lành yêu nước. Rồi ông lại đi khắp nơi, gặp ai ông cũng nói làng chợ dầu không theo giặc, làng chợ dầu phản đối chiến tranh với niềm vui hân hoan

Có thể nói, cái tài tình của Kim Lân là người đã tạo ra phế truyện căng thẳng, đầy thử thách, và cách xử lý cốt truyện đậm chất tâm lý. Nghệ thuật miêu tả tâm lí của nhà văn tự nhiên mà sâu sắc, tinh tế. Đặc biệt, ngôn ngữ đặc sắc, sinh động, thấm đẫm tính khẩu ngữ, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người nông dân chính là thế mạnh của nhà văn nông dân tài hoa này.

Những chuyển biến thầm lặng nhưng mới mẻ trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp được thể hiện rõ nét qua nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân. Từ một nông dân yêu làng, ông Hai trở thành một người dân một lòng với kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước đã hòa quyện làm một trong suy nghĩ, tình cảm và việc làm của Hai. Tình cảm ấy thống nhất, hòa quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, rộng hơn tình yêu làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

3. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai chọn lọc siêu hay:

Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở Bắc Ninh. Ông là nhà văn hiện thực sâu sắc của nền văn học Việt Nam, ông còn được biết đến là một nhà văn nông thôn với nhiều tác phẩm đặc sắc về đề tài nông thôn. Kim Lân tuy viết không nhiều nhưng tác phẩm nào cũng để lại ấn tượng rất tốt đẹp trong lòng người đọc. Anh sinh ra ở nông thôn, lại là con một gia đình nông thôn nên anh thấu hiểu hoàn cảnh và tâm lý của những người nông dân nghèo. Nhân vật của anh thường hiền lành, chất phác và khao khát hòa bình. Làng là một tác phẩm xuất sắc về đề tài nông thôn của Kim Lân. Tác phẩm được sáng tác năm 1948 trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong đó, nhân vật chính là ông Hai, ông rất yêu làng nên khi Pháp xâm lược, ông quyết ở lại làng làm du kích, đánh giặc dù tuổi đã cao.

Đối với mỗi chúng ta, ai cũng có quê hương và đều có tình yêu quê hương tha thiết, nồng nàn nhưng ở những mức độ khác nhau. Có người yêu đến nỗi trái tim không thể rời xa, có người yêu nhưng vẫn có thể đi nơi khác tìm kế sinh nhai và phát triển. Dù tình yêu ở mức độ nào thì cũng đáng trân trọng. Còn ông Hai, ông là một nông dân hiền lành, chất phác với tình yêu làng tha thiết không muốn xa rời

Anh yêu làng như thế, nhưng vì vợ con, anh buộc phải theo vợ con đến nơi sơ tán. Ở đây ông luôn được nghe chuyện làng, chuyện kháng chiến. Ông thường đến nhà ông Thức ở cạnh ông để nói chuyện kháng chiến và nghe tin tức. Và mỗi lần kể về làng của mình, ông lại háo hức và vui sướng vô cùng. Cho đến khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc làm phản Việt Nam, ông tắt thở, nỗi bất hạnh lớn nhất ập xuống đầu ông, tưởng không thở nổi.

Tác giả đã đặt anh ta vào một tình huống vô cùng khó khăn để có thể chuyển trạng thái. Làm sao ông yêu làng mà làng theo Tây? Trong hoàn cảnh này, tâm trạng của anh có một giọt nước mắt đau khổ, anh còn yêu và tin vào làng hay bỏ cuộc?

Hàng ngày ông vẫn bàn chuyện chính trị, chuyện kháng chiến, không quên khoe khoang, hãnh diện với làng. Thế nên hôm nay nghe tin làng đang theo Tây. Tin dữ đến bất ngờ khiến ông sững sờ: “Ông già lặng đi, như không thở được. Phải mất một lúc trước khi anh ấy căng thẳng, đẩy thứ gì đó vào cổ.”

Từ khi biết tin đó, anh Hải chỉ mặt báo tin xấu xông vào. Nó ám ảnh anh ngày ngày canh cánh hoài niệm nghe đâu đâu cũng sợ người ta bàn tán, chỉ nghe tiếng việt gian, anh cứ cúi gằm mặt, không lộ mặt. Về đến nhà, ông nằm xuống, khép mình lại, ông thấy thương mình, thương gia đình, nước mắt trào ra vì nghĩ “Nhìn các con vuốt ve mình mà nước mắt ông cứ trào ra… cả những thanh niên dân làng Việt Nam thời đó? Họ cũng là những người rẻ tiền phải không?”

Niềm kiêu hãnh của làng như sụp đổ. Ngôi làng là danh dự của anh, tình yêu của anh. Anh hãnh diện khoe làng với mọi người, nhưng làng bây giờ ở phía Tây, anh không còn mặt mũi nào gặp ai, ra ngoài trời thấy đông người tụ tập cũng xấu hổ. Lúc nào cũng lo người ta bàn tán về mình, bàn tán về làng đi về hướng Tây.

Trong gia đình anh cũng vì chuyện đó mà căng thẳng, không ai nói với ai câu nào. Tâm trạng anh giằng xé và đau khổ, anh liệt kê từng người, anh vẫn cố níu lấy Làng không theo tây, tất cả đều có tinh thần, sao có thể teo tóp được. Nhưng bây giờ với cái tin đó, anh biết phải làm sao, lửa làm sao có khói. Ồ! Cực chẳng đã nhé cả làng Việt! Thế thì biết làm ăn thế nào đây? Ai giữ tôi.”

Tác giả đã miêu tả chi tiết nỗi ám ảnh nặng nề chuyển thành nỗi sợ hãi thường trực ở ông Hai cùng với nỗi buồn, sự đau đớn khi nghe tin làng có giặc. Bất cứ khi nào có một đám đông, anh ấy sợ hãi. Anh không nhìn mặt ai, lúc nào cũng chăm chú nhìn, gương mặt rất khác với thường ngày. Anh ở nhà mấy hôm không sang nhà ông Thức vì xấu hổ. Đã ba ngày rồi, anh Hai không bước chân ra ngoài, ngay cả đến bên chú Thu, anh cũng không bước ra. Suốt ngày nó chỉ quanh quẩn trong nhà đóng cửa và nghe ngóng. Nghe ngóng xem quân sự bên ngoài thế nào? Một đám đông tụ tập, anh cũng để ý, vài tiếng cười nói xa xa, anh cũng ngập ngừng. Mỗi khi anh ấy nghiền ngẫm như thể mọi người đang chú ý, mọi người đang nói về “chuyện ấy”.

Quan sát kỹ ta sẽ thấy ông Hai yêu làng và yêu nước có mâu thuẫn với nhau. Trước đây, ông yêu làng quê bằng tình cảm cố hữu mà bất cứ người nông dân nào cũng vậy. Khi có kháng chiến, ông cùng mọi người đào hầm, khai hoang, thậm chí không muốn tản cư vì muốn ở lại bảo vệ xóm làng và tham gia kháng chiến. Nghĩa là khi ấy ông không ý thức bảo vệ Tổ quốc mà chỉ nghĩ đến tình yêu làng. Mọi hành động của anh đều là để bảo vệ ngôi làng.

Tuy nhiên, khi đọc kỹ và thấy những cảm xúc trái ngược trong ông khi nghe tin làng theo Tây, ông vô cùng lo lắng, ông bị cắt xén, ta thấy ông yêu làng và quan trọng hơn là ông yêu tinh thần phản kháng. của ngôi lang. Đó là giá trị thực mà anh yêu quý và gìn giữ. Vì vậy, khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, ông như chết lặng. Khi làng theo giặc, vẻ đẹp của làng vẫn còn nhưng vẻ đẹp của thời kháng chiến không còn nữa. Và lúc này, ông cảm thấy xấu hổ và tiếc cho vẻ đẹp đã mất của cuộc kháng chiến.

Đặc biệt là sau khi anh ấy tự nhủ: “Tại sao bạn không quay trở lại ngôi làng đó. Tất cả đều theo Tây. Về làng ngay là bỏ kháng chiến. Bỏ Bác Hồ… Nước mắt anh nhắc, về làng nghĩa là về làm nô lệ thằng Tây.” Đây là tình yêu là tinh thần của anh Hóa ra anh yêu làng tha thiết, bên cạnh tình yêu cố hữu, đó là tinh thần kháng chiến, vì Bác Hồ, vì Làng có những con người có tinh thần kháng chiến, chống giặc, Người càng yêu, nhớ Làng, càng nhớ công việc kháng chiến, đắp đê, hầm, v.v… về Làng vì làng theo Tây “Làng thì thương thật, làng theo Tây thì phải thù”.

Tình yêu Tổ quốc, tinh thần kháng chiến của ông cao hơn tình yêu Làng. Làng theo Tây phải thù. Ngôi làng mà trước đây anh vô cùng yêu quý, luôn muốn trở về như thế, nhưng vì tin dữ đó, anh căm ghét làng quê, quyết không về, làm nô lệ?

Cảm xúc của anh ấy khi được đưa vào dữ liệu ngày càng trở nên giống như một chế độ thức giấc. Nhất là khi gia chủ hiểu biết về tình dục và muốn chiều chuộng gia đình mình một cách thông minh. Nhưng dù đi đâu, đi đâu, người dân cũng không muốn chứa chấp làng Việt gian. Anh về Làng một thời gian ngắn, nhưng tâm trạng day dứt, giằng xé vì Làng theo Tây không về được. Tình yêu ấy thật đáng quý. Một người già như ông đau đớn, nước mắt trào ra vì danh dự của mình và danh dự của làng. Ngôi làng là danh sách của anh ấy. Làng mất danh dự biết trông vào ai?

Đó cũng là suy nghĩ chung khi làng là quê hương, là nơi chôn nhau cắt rốn. Ai cũng có một quê hương để về, một chốn nương thân. Trong hoàn cảnh này Hải thật đáng thương làm sao. Bây giờ không thể trở về quê hương

“Làng đã theo Tây, về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp nô lệ”, nên Người nghĩ về Bác, nghĩ về kháng chiến nhiều hơn nghĩ về mình. Nhưng bạn không có gì phải lo lắng cho đất nước. Tâm trạng của ông bị đặt vào một bế tắc thực sự, giữa đi và ở, giữa tình yêu cố hữu và tình yêu quê hương, yêu kháng chiến, ông đã chọn kháng chiến. Nhưng anh phải đi đâu khi đã mang cái mác là làng nhàng Việt Nam. Ông không biết tâm sự với ai, may mắn có con trai ông, nó nói nó vẫn muốn về làng nhưng nó yêu kháng chiến, nó ủng hộ Bác Hồ. Nó nói lên tâm trạng của ông, phải ủng hộ ông Hồ. “Các huynh đệ, các đồng chí, nói cho cha con các ngươi biết. Bác Hồ ngửa cổ nhìn hai cha con. Đó là tâm huyết của cha con ông, đừng bao giờ ăn nhầm thực đơn”.

Cuối cùng, mấy ngày sau, một đồng chí đến vui nhà báo, đó chỉ là tin giả, làng mình không Việt, không Tây. Con đường như bao khổ đau, giọt nước mắt nay đã được xóa sạch. Anh đang vui, anh đang vì Làng, khuôn mặt buồn bã ngày nào bỗng tươi tỉnh hẳn lên. Do đó, nút thắt trong lòng anh đã được cởi trói. Người quản lý vàng đã đi và nói với mọi người tin giả này. Ông nói nhà ông bị Tây quét sạch mà đông như trẩy hội. Có lẽ yêu làng, yêu kháng chiến, yêu quê hương, yêu Bác Hồ lớn hơn vật chất, ông không sợ gì cả, chỉ sợ người ta không tin mình theo kháng chiến, chỉ sợ người ta nói ông và làng ông là làng Việt Gian.

“Ông chủ tịch làng tôi vừa lên đính chính vụ này, ông nói… Cải chính cái tin làng chợ Dầu của chúng tôi là Việt gian lừa đảo. Dối trá! Lười hết! Toàn bộ mục đích là sai.

Qua đây, chúng ta càng hiểu thêm rằng, tình yêu làng của Hải là tình yêu làng kháng chiến, những con người đồng lòng theo cách mạng chứ không phải là những đam mê, hoa mỹ của làng quê mà anh thường khoe khoang. Vì vậy, khi Làng bị quét, thậm chí bị quét cả nhà, anh vẫn cảm thấy rất vui và hạnh phúc.

Truyện ngắn đã khắc họa thành công nhân vật ông Hai yêu làng, yêu kháng chiến, yêu đất nước tha thiết. Đặc biệt, nhân vật bị đẩy vào cảm xúc mãnh liệt lại càng thể hiện lòng yêu nước nồng nàn. Bằng nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, ngôn ngữ độc thoại, đậm chất thôn quê nhưng rất gợi cảm, giàu tình cảm đã thể hiện một cách sinh động và đẹp đẽ bức chân dung người nông dân trong buổi đầu kháng chiến.

Theo dõi chúng tôi trênDuong Gia FacebookDuong Gia FacebookDuong Gia TiktokDuong Gia TiktokDuong Gia YoutubeDuong Gia YoutubeDuong Gia GoogleDuong Gia Google
5/5(1
bình chọn
)

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com