“Thề nguyền” là một đoạn trích hay trong bài Truyện Kiều của Nguyễn Du. Bài viết dưới đấy sẽ giúp các em học sinh có thêm tài liệu Soạn bài Thề nguyền (trích Truyện Kiều) ngắn gọn nhất. Cùng tham khảo nhé.
1. Nhận xét về nghĩa của các từ “vội”, “xăm xăm”, “băng”:
– Không khí đêm thề diễn ra khẩn trương gấp gáp.
– Lời thề trái phép của cha mẹ.
– Nói nhịp điệu khẩn thiết của lời thề.
– Nét mới trong cách nhìn tình yêu của Nguyễn Du: Sự chủ động của Kiều.
– Tình tứ đến tê liệt, rất tự nhiên của cặp đôi.
⇒ Cách nhìn tiến bộ, nghĩa tình vượt thời đại của thi hào Nguyễn Du.
2. Không gian thơ mộng, thiêng liêng của cuộc thề nguyện:
– Hình ảnh: Ánh trăng, le lói, ánh đèn chập chờn, bước chân người đẹp nhẹ nhàng ⇒ không gian đẹp nhưng có cảm giác như hư ảo.
– Hương thơm sâu.
– Trăng tròn ⇒ thiên nhiên vĩ đại vĩnh hằng ⇒ tình yêu thiêng liêng được đất trời chứng giám.
– Ghi tên tờ giấy viết lời tuyên thệ.
– Tặng kỷ vật: Tóc mây.
⇒ Lời nguyền trong không gian: Thơ mộng, trang trọng, thiêng liêng.
3. Liên hệ với trích đoạn Trao duyên để thấy tính lô gíc nhất quán trong quan niệm về tình yêu của Kiều:
Đoạn trích này có mối quan hệ khá mật thiết với đoạn ““Trao duyên”. Qua cách miêu tả của Nguyễn Du, ta có thể thấy ngay từ lời thề này, tình yêu của hai người rất thiêng liêng. Sự gắn bó giữa họ không chỉ là tình cảm nồng nàn mà còn mang đậm dấu ấn thiêng liêng. Lời thề của họ trong Đêm thanh tịch được đạo diễn ánh trăng ghi lại bằng tờ giấy tối cao.
Đoạn “Trao duyên” là sự tiếp nối hợp lí quan niệm của Kiều về tình yêu. Điều đó cho thấy không chỉ khi tình yêu đã mất và cả khi đã sống cuộc đời nhơ nhớp, Kiều vẫn rất coi trọng mối tình đầu, trân trọng lời thề xưa như một bảo vật cao quý, thiêng liêng. Ngược lại, đoạn trích này là cơ sở vững chắc để bảo vệ cách hiểu đúng về đoạn “Trao duyên”, cũng như cách hiểu đúng về sự thật nhất quán và sâu sắc trong tình yêu mà Thúy Kiều dành cho Kim Trọng.
4. Nội dung tác phẩm Thề nguyền (trích Truyện Kiều):
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần.
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Vội mừng làm lễ rước vào,
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương.
Tiên thề cùng thảo một chương.
Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
Vừng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
5. Tìm hiểu về tác giả và tác phẩm:
5.1. Tác giả Nguyễn Du:
– Nguyễn Du: Nguyễn Du (1765-1820), chữ Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam.
Cuộc đời:
– Ông xuất thân trong một gia đình có hai truyền thống lớn: truyền thống làm quan và truyền thống văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, học rộng tài cao, mẹ là con một vị quan lớn. Người anh cùng cha khác mẹ của ông là Nguyễn Khản cũng làm quan, đó là tiền đề để Nguyễn Du phát huy tài năng văn chương của mình.
– Mười năm lưu lạc xứ Bắc, Nguyễn Du đã tận tụy với cuộc sống gian khổ, nghèo khổ và chứng kiến những số phận đau khổ của những người dân g Trải qua cuộc sống giàu sang, phú quý vốn sống và chiêm nghiệm xã hội. , điều kiện con người.
– Được cử sang Trung Quốc hai lần, một lần vào năm 1813, xúc động trước nền văn hóa Hán mà ông đã quen thuộc từ nhỏ, chuyến đi đã để lại ấn tượng mạnh trong thơ văn của ông; Lần thứ hai vào năm 1820, chưa kịp đi thì ông lâm bệnh và qua đời.
Sự nghiệp văn học:
– Sáng tác chữ Hán: 3 tập thơ với 249 bài thơ là Thanh Hiên thi tập (78 bài), Nam trung ngâm thơ (40 bài) và Bắc hành tạp lục (131 bài).
– Sáng tác chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn Chiêu hồn.
– Đặc điểm sáng tác: tác phẩm thể hiện trí tưởng tượng, tình cảm, cá tính riêng của tác giả.
+ Thể hiện tư tưởng nhân đạo: đề cao giá trị con người. Tất cả những tác phẩm đó đều thể hiện trí tuệ cá sấu của Nguyễn Du đối với cuộc sống của con người, đặc biệt là những phận người bé nhỏ, bất hạnh,… đó là kết quả của quá trình quan sát, chiêm nghiệm cuộc sống. muôn thuở, về con người tác giả.
+ Lên án, tố cáo những thế lực đen tối chà đạp lên con người.
5.2. Tác phẩm:
Vị trí đoạn trích: Từ câu 431 đến câu 452 của Truyện Kiều, kể về việc Kiều đến nhà Kim Trọng và tuyên thệ.
Thể loại: Thơ Nôm.
Thể thơ: Lục bát.
Phương thức biểu đạt: Tự sự, miêu tả.
Bố cục: 2 phần
– Phần 1 (14 câu đầu): Kiều trở lại nhà Kim Trọng.
– Phần 2 (8 câu còn lại): Cảnh thề thốt của Kim – Kiều.
Giá trị nội dung: Nguyễn Du đã dựng nên một cảnh đẹp đó là Đêm trăng tình yêu, đêm trăng hẹn hò, qua đó thể hiện khát vọng tình yêu tự do của Thúy Kiều, một cô gái tài sắc vẹn toàn. nhưng số phận. Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng là một tình yêu trong sáng, thủy chung vượt lên trên những lễ giáo phong kiến.
Giá trị nghệ thuật:
– Thuật toán sử dụng cổ điển và kinh điển.
– Hình ảnh ẩn dụ đặc sắc.
– Sử dụng nhiều từ ghép có giá trị gợi hình, biểu cảm.
6. Vài nét về tác phẩm Thề nguyền:
6.1. Thề nguyền là khúc ca về tình yêu tự do đôi lứa:
Ở phần đầu của truyện đã được giải quyết và đính ước (từ câu 1 đến câu 242) giới thiệu về chị em Thúy Kiều, cuộc gặp gỡ tình cờ với Kim Trọng. Ngay từ lần đầu gặp gỡ, Thúy Kiều và Kim Trọng đã nổi tiếng si tình, cả hai “trong tình như ngoài còn e”.
Sau đó, Kim Trọng ở trọ cạnh nhà Thúy Kiều. Nhân dịp Kiều quên xe và Kim Trọng bị bắt, hai người trao nhau kỷ vật và hẹn hò thủy chung.
Khi cả nhà Kiều đi mừng tuổi bà ngoại, nàng đã chủ động đến nhà Kim Trọng tự ái cho đến tối. Khi trở về nhà, thấy mẹ chưa về, Kiều tìm đến nhà Kim Trọng lần thứ hai.
Đoạn trích Nguyền là một trong những đoạn hay nhất của Truyện Kiều, nằm ở đoạn đầu của An xóa và bậc đính. Đoạn văn kể về buổi tối hai người gặp nhau tại quán trọ của Kim Trọng, hai người hẹn hò, thề nguyền chung thủy với nhau trọn đời.
Kiều sang nhà Kim Trọng trong tình yêu chớm nở từ lần gặp đầu tiên
Đoạn trích là cảnh ân ái ngọt ngào, lãng mạn giữa Kiều và chàng Kim. Việc Thúy Kiều chủ động đi tìm Kim Trọng đủ thấy tình yêu trong nàng lớn đến nhường nào.
Kim Trọng có cảm tình với nàng nhưng vẫn sợ nàng không đồng ý. May mắn thay, cả hai đã nhận ra tình cảm của nhau và chuẩn bị một lễ tuyên thệ thiêng liêng, hạnh phúc.
Thề nguyền là một trong những đoạn trích tiêu biểu cho tình yêu, sự thủy chung nhưng không kém phần tàn bạo của Thúy Kiều. Một cô gái sống trong xã hội phong kiến, sẵn sàng theo hủ tục để đem lòng yêu Kim Trọng.
Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa, gương dọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt hướng huỳnh hắt hiu
– Thề nguyền
Với câu thơ này, người đọc có thể hình dung ra một khung cảnh lãng mạn, kỳ ảo của đêm nguyền. Có ánh trăng sáng cùng với ánh đèn mờ ảo khiến không gian trở nên thật trữ tình và thơ mộng.
Trong xã hội xưa, con gái thường ở vị trí phụ thuộc, kể cả trong hôn nhân vì là “liễu yếu đào tơ”. Tuy nhiên, trong Truyện Kiều, cô gái qua cổng lại sợ hãi.
Hình ảnh Kiều “một mình xăm mình rộng đường” thể hiện sự chủ động của người con gái khi yêu, lấy hết can đảm vượt qua mọi rào cản. Cuối cùng, cô gặp được người mình thầm thương trộm nhớ.
Sự táo bạo, mạnh mẽ đã phá vỡ mọi giới hạn của hủ tục phong kiến “cha đặt đâu con ngồi đấy”. Người ta định kiến là không trói được chân cô, làm lu mờ tiếng gọi tình yêu.
Hơn nữa, sức mạnh của tình yêu đã thúc đẩy cô hành động, cô sống thật với cảm xúc và ước muốn của mình. Dù hành động táo bạo, vượt quá giới hạn cho phép nhưng Thúy Kiều cũng có những lời biện minh cho hành động có vẻ bồng bột của mình:
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao
“Khoảng vắng đêm trường” Đó là một khoảng thời gian dài mà cô phải vượt qua để gặp được Kim. Việc Thúy Kiều đến nhà Kim Trọng trong đêm cũng cho thấy nàng đã vượt qua những lo lắng, thoáng suy nghĩ về cuộc chia ly để làm chủ tình yêu và tự mình an bài số phận.
Bài thơ “Vì hoa phải tìm đường về với hoa” đã thể hiện một quan niệm hoàn toàn khác với những cô gái cùng thời. Như thể cô ấy muốn tìm một người bạn tâm giao, một người phù hợp với bản thân hoặc cho cha mẹ cô ấy.
Thúy Kiều từ khi còn sống trong cảnh mộng mị, rách nát đã có những dự cảm không lành về tương lai nhiều biến cố. Dù tình yêu đang nồng nàn nhất, cô vẫn lo lắng đây chỉ là một giấc mơ, rồi sẽ tan biến.
Hành động đưa đẩy của cô nàng như muốn tranh thủ từng phút, từng giây hạnh phúc bên người tình. Cô muốn làm chủ tình yêu của chính mình, từ đó vượt qua mọi rào cản về quan niệm xã hội cũ.
Đoạn thơ nói lên tâm trạng, tình cảm của Thúy Kiều. Cô nghe theo tiếng gọi của người yêu, hành động mà không tuân theo các nghi thức phong kiến.
Đối với chàng Kim, khoảnh khắc này quý giá hơn bao giờ hết. Bởi sau bao tháng ngày mong đợi, nay tôi đã được gặp mặt trực tiếp để bày tỏ cảm xúc của mình với cô Kiều:Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê
Tiếng sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng
Nguyễn Du đã dùng hình ảnh ước lệ “tiếng sen” để nói về bước chân nhẹ nhàng của Thúy Kiều trong lúc chàng Kim nửa tỉnh nửa mê, luyến tiếc Kiều trở về sau buổi đầu gặp gỡ.
Rồi nàng Kiều bất ngờ trở về khiến chàng bâng khuâng, bâng khuâng như còn đang mơ trong giấc mộng đêm xuân. Khi biết không phải mơ, Kim Trọng vội đưa Thúy Kiều vào nhà.
Đoạn thơ là sự ra đi của Thúy Kiều và Kim Trọng, là cuộc hội ngộ của đôi tân lang trong tình yêu. Tình yêu trong sáng, chân thành ấy xuất phát từ trái tim.
Lời thề nguyền của Kim Trọng và Thuý Kiều
Trước sự xuất hiện bất ngờ của Thuý Kiều, chàng Kim mừng như đinh đóng cột. Niềm vui hân hoan, niềm vui không giấu giếm mà thể hiện trên nét mặt và hành động, Kim thêm phần gần gũi để buổi gặp mặt thêm ý nghĩa và thiêng liêng.
Vội mừng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp song đào thêm hương
– Thề nguyền
Hình ảnh nến sáp tạo không gian ấm áp và hạnh phúc. Những lời thề, những lời thề đã sẵn sàng, những kỷ vật cũng đã sẵn sàng cho giây phút thề nguyền của hai người:
Tiên thề, cùng thảo một chương
Tóc mây một món, dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương
Với những câu thơ này, người đọc có thể hình dung được không khí nghiêm trang và thiêng liêng như thế nào. Nguyễn Du dùng từ “ăn” và lời thề “trăm năm dâng một chữ đồng trên đá” để minh chứng cho tình yêu hủy diệt của họ trong vũ trụ bao la.
Lời thề ngắn gọn, áo vàng nhưng đầy đủ nghi lễ như lời thề thần tiên, tóc mây, dao vàng, trăng và lời thề. Thúy Kiều trao cho Kim Trọng sợi tóc mây thể hiện tình yêu sâu sắc mà nàng dành cho chàng.
Cảnh đêm thề thốt được Nguyễn Du miêu tả bằng những chi tiết sống động, đầy đủ ánh sáng, màu sắc và hương thơm. Nét đặc sắc của không gian đã trở thành kỉ niệm thiêng liêng, khắc cốt ghi tâm của hai người Kim, Kiều.
Bằng nhiều hình ảnh ước lệ cùng với những điển tích, điển tích, Nguyễn Du đã khắc họa nên một không gian say lãng mạn, thơ mộng mà vầng trăng cuối rừng là nhân chứng cho tình yêu giữa hai người.
Ánh trăng đã chứng kiến mọi biến cố trong cuộc đời Thúy Kiều, từ lúc hạnh phúc, hương khói nồng nàn đến lúc thề non hẹn biển với chàng Kim. Cũng có những giây phút đau khổ và chia ly sau này.
Đoạn trích đã thể hiện trọn vẹn tình sâu nghĩa nặng của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng, cũng có thể thấy đây là một trong những khoảnh khắc đẹp nhất trong cuộc đời kém may mắn của Kiều.
6.2. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong Thề nguyền:
Bằng nghệ thuật sử dụng từ ngữ giàu sức gợi và hệ thống hình ảnh y phục, đan xen việc sử dụng điển và nhiều từ ngữ thông tục có giá trị tượng hình và biểu cảm, đoạn văn Thề Nguyền giúp người đọc hiểu được quan niệm về tình yêu. tình yêu tự do, tiến bộ của Nguyễn Du.
Nguyễn Du đã dựng nên một cảnh đẹp, đó là đêm trăng tình, đêm hẹn ước để thể hiện khát vọng tự do của Thúy Kiều. Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng chứa đựng sự trong sáng, thủy chung, son sắc.
Cảnh thề nguyền trong đêm trăng là giây phút hạnh phúc nhất đời Thúy Kiều, bởi lúc ấy nàng được sống và được yêu say đắm. Không chỉ có một lời thề hay một lời hứa, cô ấy giờ đây đã ở bên người mình yêu.
Qua mối tình của Thúy Kiều và Kim Trọng, Nguyễn Du thể hiện tư tưởng nhân đạo về tình yêu và hạnh phúc con người. Chưa kể đến những người phụ nữ dưới chế độ phong kiến xưa, một bộ phận luôn bị lễ giáo khống chế.