Với những chi tiết mô tả tinh tế và sắc sảo, đoạn miêu tả nội tâm nhân vật trong đoạn trích Chuyện ở lầu Ngưng Bích đã trở thành một trong những đoạn thành công nhất của tác phẩm. Dưới đây là bài Cảm nhận diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích.
1. Dàn ý Cảm nhận diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn gọn nhất:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu tác giả và tác phẩm
Trích đoạn Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích
Nêu vấn đề cần phân tích: tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích
1.2. Thân bài:
– Cảm nhận tâm trạng nhân vật Thúy Kiều
Tâm trạng Kiều trong 6 câu thơ đầu: cảm giác đơn độc, trơ trọi giữa không gian vắng lặng, hoang vu, lạnh lẽo.
Hình ảnh Kiều đơn độc, trơ trọi giữa nơi mênh mông non nước, không một người bầu bạn.
Tâm trạng nhớ thương người yêu và gia đình trong 8 câu thơ tiếp: Kiều nhớ Kim Trọng – mối tình đầu và đêm trăng thề nguyền, thương cha mẹ già yếu không ai chăm sóc.
Nỗi nhớ của Kiều thể hiện nhân cách đáng trọng của nàng: người chung thủy, hiếu thảo, có tấm lòng đáng trọng.
– Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong 8 câu thơ cuối
Hình ảnh cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển: thể hiện cuộc đời Kiều lênh đênh giữa dòng đời không biết ngày đoàn tụ cùng gia đình.
Những cánh hoa lụi tàn trôi trên mặt nước: thể hiện thân phận hoa tàn của Kiều khi vô định, ba chìm bảy nổi, số mệnh đầy bạc bẽo của nàng.
Màu nội cỏ rầu rầu: gợi lên cho Kiều nỗi chán nản, vô vọng, bế tắc vì cuộc sống xung quanh.
Điệp từ “buồn trông” kết hợp với những hình ảnh phía sau diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc thái khác nhau.
Tâm trạng của Kiều dồn dập tăng lên và đỉnh điểm là nàng tưởng tượng sóng gió cuộc đời đang mỗi lúc một dâng để nhấn chìm nàng.
1.3. Tổng kết:
Trong đoạn trích, tâm trạng của Thúy Kiều được thể hiện sâu sắc.
2. Cảm nhận diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất:
Tác phẩm Truyện Kiều được xem là một trong những tác phẩm vĩ đại và xuất sắc nhất của Nguyễn Du. Ông đã sử dụng các phép tu từ một cách rất thành công, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình, để tạo nên một tuyệt phẩm đầy ấn tượng. Trong đó, đoạn trích tại lầu Ngưng Bích được coi là tả cảnh ngụ tình hay nhất trong tác phẩm, tạo ra một hình ảnh rất sinh động về tâm trạng của Thuý Kiều khi bị giam cầm tại đó. Sự tài năng của Nguyễn Du đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
Trong sáu câu đầu của bài thơ, tâm trạng của Thúy Kiều được thể hiện rõ ràng với sự chán nản, cô đơn, lạc lõng và đau buồn khi cô đang ở lầu Ngưng Bích. Đó là không gian vắng vẻ giữa trời đất, nơi “vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung”, và Kiều chỉ thấy “Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia” với những “cồn cát vàng” như đang chuyển động lượn sóng và bụi hồng vương vấn trên hàng dặm xa xôi. Tất cả tạo nên một bức tranh thiên nhiên mênh mang, hoang vắng và rợn ngợp, nhưng lại bị khuất phục trong khoảng thời gian “mây sớm, đèn khuya” tuần hoàn, khiến tâm trạng bẽ bàng của nhân vật trở nên rõ nét hơn trong cảnh giam cầm và tù túng. Khung cảnh đó càng làm nổi bật thêm sự đau khổ trong bi kịch của Thúy Kiều, khi “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”, và đánh thức lại nỗi nhớ về quá khứ.
Tác giả Nguyễn Du sử dụng ngòi bút tinh tế để miêu tả nỗi nhớ của Thúy Kiều. Ban đầu, cô nhớ về hình ảnh của chàng Kim và đêm hứa hẹn giữa hai người:
Tin sương luống những rày trông mai chờ”
Tình yêu của Thúy Kiều dành cho chàng Kim đã trở thành nỗi đau sâu sắc nhất trong cảm xúc của nàng, bởi “đạo hiếu không thể cùng tồn tại với tình nghĩa”, và nàng đã chọn cách chấm dứt mối quan hệ của họ để làm tròn bổn phận của mình.
Là người con gái hiếu thảo, dù đã bán mình cứu cha nhưng Kiều vẫn mang nặng nỗi nhớ thương cha mẹ. Tác giả đã sử dụng điển cố – một thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu trong văn học trung đại để thể hiện tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Tuy nhiên, nét độc đáo của tác giả nằm ở chỗ đặt nỗi nhớ mong của chàng Kim trước nỗi nhớ cha mẹ của Kiều, thể hiện sự tinh tế trong việc khắc họa cảm xúc của nhân vật. Vì Kiều đã hy sinh cho cha mẹ, còn nợ chàng Kim một lời hứa và một tình yêu thủy chung, nên nàng tự cho mình là bất trung.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Khung cảnh thiên nhiên tại cửa biển trước lầu Ngưng Bích được miêu tả đầy chân thực và sắc nét: chiều hoàng hôn tuy đẹp nhưng mang nỗi buồn và cô đơn. Con thuyền với những cánh buồm trắng nhấp nhô, con sóng bạc dập dềnh cuốn trôi từng cánh hoa, cỏ xanh nối liền đường chân trời xanh vô tận. Tiếng vọng của biển khơi làm nổi bật thêm nét đặc trưng cho cảnh vật, và bức tranh thiên nhiên chứa đựng những tâm trạng sâu xa của con người. Nguyễn Du đã tài hoa trong việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tạo nên hiệu ứng đồng cảm với tâm trạng của Thúy Kiều.
Trong đoạn trích này, điệp ngữ buồn được sử dụng liên tục tạo thành điệp khúc cho đoạn thơ và cũng tạo nên điệp khúc tâm trạng của Thuý Kiều. Nỗi buồn trong tâm hồn Kiều tràn ngập như những đợt sóng cuồn cuộn về phía đại dương bao la. Niềm đau ấy trỗi dậy và vương vấn mãi, làm con người không thể thoát khỏi sự mê hoặc của nó. Mỗi cảnh vật như hòa cùng nhịp điệu đau buồn, truyền tải thông điệp sâu sắc đến tận đáy lòng người đọc.
Cửa biển chiều tím buồn phơi,
Con thuyền ai kia thấp thoáng cánh buồm?
Chiếc thuyền đó không có bến cập, không có nơi trở về, gợi lên những nỗi nhớ, cô đơn và hy vọng trở về mái ấm gia đình, bạn bè thân thiết. Điều này tương tự với tình cảnh của Kiều.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Cảnh sắc trước mắt Kiều tươi đẹp nhưng lại mang nỗi buồn và ảm đạm. Màu xanh vô tận của biển cả và thảm cỏ tạo nên một cảnh tượng u tối, như một dấu hiệu cho thấy tương lai của Kiều đang bị khép kín, như một cái hố đen của tuyệt vọng chôn vùi ước mơ và khát khao. Tiếng gió thổi lùa làn tóc, âm thanh của sóng biển cũng gợi lên những tình huống kinh hoàng và sự lo lắng của Kiều trước tương lai bất định. Những câu thơ đầy tu từ lặp lại như những câu hỏi sâu trong tâm trí của người đọc, khiến ta đồng cảm với nỗi lo âu và nỗi sợ hãi của Kiều. Qua đó, Nguyễn Du đã truyền tải được sự thương cảm và tôn trọng đối với số phận của người phụ nữ trong một thời đại khắc nghiệt.
3. Cảm nhận diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích chọn lọc ý nghĩa nhất:
Trong đoạn miêu tả nội tâm của nhân vật Thúy Kiều tại lầu Ngưng Bích, Truyện Kiều đã thành công trong việc tái hiện cảnh ngộ cô đơn và buồn tủi của nhân vật. Bằng cách sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tác giả đã khắc họa một tấm lòng thủy chung và hiếu thảo của Thúy Kiều, người đã bị lừa bán và đẩy vào hoàn cảnh khó khăn.
Trong phần này của Truyện Kiều, Thúy Kiều bị đẩy vào một môi trường xa lạ và đầy thử thách, tuy nhiên, nhân vật này đã tỏ ra vững vàng và kiên định với nguyện vọng của mình. Đoạn thơ tả cảnh ngộ tại lầu Ngưng Bích càng thêm sắc nét và đầy cảm xúc khi Thúy Kiều phải đối mặt với sự cô đơn và khao khát trở về gia đình.
Trong đó, bút pháp tả cảnh ngụ tình được tác giả sử dụng rất tinh tế và tỉ mỉ để khắc họa cảnh tượng chân thực và sống động. Từ những chi tiết nhỏ nhặt như những bông hoa nở rộ trong sân, những con chim hót líu lo, cho đến tiếng chuông nhà thờ vọng ra từ xa xăm, tất cả đã tạo nên một bức tranh đẹp và sâu sắc về tâm trạng của Thúy Kiều.
Điều đặc biệt ở đoạn thơ này là sự tương phản rõ ràng giữa cảnh tượng đầy sức sống của thiên nhiên với tâm trạng cô đơn và buồn tủi của Thúy Kiều. Thúy Kiều được tả dưới hình ảnh một người phụ nữ đơn độc, nhưng vẫn giữ vững tấm lòng thủy chung và hiếu thảo. Bằng cách này, tác giả đã tạo ra một nhân vật với độ sâu và đầy nhân văn, để lại ấn tượng sâu sắc đối với độc giả.
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
Bằng bút pháp tinh tế và tài tình, tác giả Nguyễn Du đã tạo nên một hình ảnh rất sống động và sâu sắc về nội tâm của nhân vật chính Thúy Kiều trong đoạn miêu tả về lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều. Bắt đầu với câu thơ đầu tiên, tác giả đã khéo léo chỉ ra vị trí và điểm nhìn của Thúy Kiều khi cô đứng trước lầu Ngưng Bích. Với một tầm nhìn bao quát, Kiều ngắm nhìn núi non hùng vĩ, không gian mở đầy rộng lớn và mênh mông, trái ngược hoàn toàn với không gian khép kín và tối tăm bên trong lầu Ngưng Bích.
Câu thơ “Khóa xuân” cũng được tác giả sử dụng với ý nghĩa sâu sắc để miêu tả cảm xúc của Thúy Kiều. Khóa xuân ở đây có thể hiểu là những gì đã buộc chặt tuổi thanh xuân của Thúy Kiều, khiến cô không thể tự do và phải sống trong sự kiềm chế và bức bách. Từ đó, tác giả đã truyền tải cho người đọc cảm giác uất ức và bất lực của Thúy Kiều trước số phận đáng thương của mình.
Khi nhìn ra xa, Thúy Kiều còn thấy được vẻ non xa tấm của ánh trăng gần ở chung. Cảnh vật như ẩn như hiện, như xa mà như gần, tạo ra một sự mơ hồ, lạnh lùng và đáng sợ. Không gian rộng lớn, hùng vĩ nhưng lại hoang vắng, tịch mịch đến rợn người. Tất cả những gì Thúy Kiều cảm nhận được từ cảnh vật này đều phản ánh sự cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của cô.
Với những chi tiết mô tả tinh tế và sắc sảo, đoạn miêu tả nội tâm nhân vật trong Truyện Kiều đã trở thành một trong những đoạn văn hay nhất và thành công nhất của tác phẩm, đem lại cho độc giả những trải nghiệm đầy sâu sắc về cảm xúc và tình cảm của nhân vật.
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”
Kể từ khi đến sống tại lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều luôn luôn đắm mình trong suy ngẫm và cảm thấy đau đớn về bản thân và những biến cố đã xảy ra trong cuộc đời nàng. Tâm trạng của nàng thường tràn đầy sự xấu hổ và buồn bã khi nghĩ về những sự ô nhục đã xảy ra trong quá khứ, cùng với nỗi nhớ da diết về chàng Kim. Thúy Kiều vẫn nhớ mãi lời thề hẹn dưới ánh trăng năm xưa, và dù đã quyết định phá vỡ lời thề, nàng vẫn chưa bao giờ có cơ hội gặp lại chàng để nói lời từ biệt. Vì vậy, nàng luôn cảm thấy day dứt và đau khổ khi nghĩ về chàng Kim, và những kỷ niệm về hai người vẫn mãi không thể phai nhạt.
Ngoài nỗi nhớ về chàng Kim, nỗi nhớ về cha mẹ cũng luôn hiện hữu trong tâm trí Thúy Kiều. Nàng đau xót và cảm thấy tủi thân khi nghĩ về cha mẹ đã già và vẫn cứ tựa cửa đợi chờ nàng, như câu thơ “Xót người tựa cửa hôm mai”. Thúy Kiều đau khổ vì không thể ở bên cha mẹ để chăm sóc và nuôi dưỡng họ khi họ đã về già, và không thể thực hiện trách nhiệm của một người con. Nàng không thể quạt cho cha mẹ vào những ngày nắng nóng, hay sưởi ấm chăn cho họ vào những ngày lạnh giá. Tuy nhiên, trong lòng Thúy Kiều luôn tồn tại tấm lòng hiếu thảo, giống như hình ảnh Sân Lai trong văn học cổ Trung Quốc, miêu tả về Lai Tử, người con của vương quốc Sở, dù đã già nhưng vẫn nhảy múa trước sân nhà để làm vui lòng cha mẹ. Tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều được thể hiện qua hình ảnh Lai Tử, đồng thời thể hiện sự day dứt trong tâm trí của nàng về việc không thể ở bên cha mẹ để chăm sóc họ.
“Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Thúy Kiều luôn nghĩ đến người khác trước bản thân mình, ngay cả trong những hoàn cảnh đau khổ nhất. Cô đau khổ nhớ nhung, khi trở về với thực tại lại càng thấy thương mình hơn. Đồng cảm với nỗi niềm của Kiều, cảnh vật cũng phảng phất một nỗi buồn, chưa nói đến những điềm báo trước những sóng gió trong tương lai của nàng. Hình ảnh dòng suối xa, hoa trôi, cỏ khô, màu xanh của mây thấp gợi sức sống.
Vì vậy, qua đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích, chúng ta thấy được tài năng đặc biệt của Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật, cũng như tài nghệ tả cảnh điêu luyện của Nguyễn Du.