Đoạn trích Chị em Thúy Kiều miêu tả hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều với những nét bút tinh tế khắc họa tính cách riêng biệt của họ. Dưới đây là bài Phân tích cảm hứng nhân đạo trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều.
1. Dàn ý Phân tích cảm hứng nhân đạo trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều chi tiết nhất:
1.1. Mở bài:
Đặt vấn đề Nguyễn Du, đại thi hào, danh nhân văn hóa dân tộc Việt Nam, người đã sáng tác Truyện Kiều, được coi là kiệt tác bất hủ trong kho tàng văn học dân tộc. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” mở đầu tác phẩm bộc lộ chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du.
1.2. Thân bài:
Khái quát: Trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, tinh thần nhân đạo của Nguyễn Du được thể hiện qua sự ngưỡng mộ trước nhan sắc và tài năng của người con gái lớn nhà họ Vương.
Phân tích
a. Thứ nhất, chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du thể hiện qua việc ông ca ngợi vẻ đẹp và tài năng của con người.
Bằng bút pháp tượng trưng, tác giả miêu tả vẻ đẹp yêu kiều, trong sáng của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân: “Duyên dáng như tuyết trắng, thanh tú như ngọc mài”.
Vẻ đẹp của Thuý Vân được so sánh với vẻ đẹp hoàn mỹ của tạo hóa như “trăng”, “hoa”, “mây”, “tuyết”, “ngọc” với hàm ý Vân sẽ có một cuộc đời bình yên không sóng gió.
Vẻ đẹp của Thúy Kiều được tô đậm bởi liên tiếp hai từ “sắc sảo mặn mà” sau “càng thắm” thể hiện sự sắc sảo về trí tuệ và chiều sâu tình cảm của nàng.
Nhà thơ dùng lối miêu tả tưởng tượng để ca ngợi ngoại hình của Kiều hơn là miêu tả trực tiếp. Ông miêu tả sự ghen tị và ngưỡng mộ trước vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” của nàng, thể hiện một cách sáng tạo và trường tồn vẻ đẹp khó cưỡng của người phụ nữ.
Qua việc ngưỡng mộ vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã đề cao những giá trị vô giá của con người đó là dung mạo, tài năng và đạo đức.
Sự ngưỡng mộ, ngợi ca người phụ nữ trong một xã hội “trọng nam khinh nữ” là biểu hiện sâu sắc của cảm hứng nhân đạo.
b. Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Du còn được thể hiện qua việc ông nhìn trước số phận của nhân vật Kiều qua bức chân dung khắc cốt ghi tâm.
Vẻ đẹp “chim sa cá lặn” của nàng Kiều khiến tạo hóa phải ghen tị, bao mỹ nhân khác cũng phải ghen tị. Đặc biệt là “tiếng đàn tơ bạc” đầy đau khổ, xót xa mà Kiều đã sáng tác cho chính mình.
1.3. Kết bài:
Nêu cảm nhận cá nhân về vấn đề
2. Mở bài Phân tích cảm hứng nhân đạo trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều:
Nhà trí thức người Đức JW Goethe từng có một nhận định sâu sắc: “Chỉ có những nỗ lực vì vận mệnh mới có thể tồn tại lâu dài”. Kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du quả thực là một tác phẩm được tạo ra vì thiên mệnh. Sống trong xã hội phong kiến đầy rẫy bất công và chứng kiến biết bao nỗi bất công mà người phụ nữ phải gánh chịu, Nguyễn Du đã viết nên kiệt tác này với lòng ngưỡng mộ và đồng cảm sâu sắc đối với những nữ anh hùng tài sắc vẹn toàn nhưng lại bị số phận làm nạn nhân. Nguyễn Du sinh ra trong một thời kỳ đầy biến động khi đất nước chìm trong nội chiến Nam Bắc triều và nhà Thanh xâm lược Việt Nam. Sinh thời, Người đã chứng kiến những nỗi bất hạnh, bất công mà con người phải gánh chịu, đặc biệt là người phụ nữ và vô cùng cảm thông trước cảnh ngộ của họ. Hoàn cảnh và trái tim đồng cảm của ông đã cho ra đời tác phẩm bất hủ Truyện Kiều. Tiểu thuyết kể về cuộc đời đầy trắc trở, éo le của nàng Kiều tài sắc vẹn toàn, đồng thời lên án hiện thực đau xót của xã hội phong kiến đương thời. Tác phẩm đặc biệt thành công ở nghệ thuật khắc họa nhân vật, tiêu biểu là đoạn trích Chị em Thúy Kiều miêu tả hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều với những nét bút tinh tế khắc họa tính cách riêng biệt của họ.
3. Thân bài Phân tích cảm hứng nhân đạo trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều:
Bằng hai câu thơ đầu tiên, đoạn văn đã giới thiệu về hai nhân vật được miêu tả: “Đầu lòng hai ả tố nga”. Trong thơ ca từ lâu, trăng đã xuất hiện nhiều lần. Với vẻ đẹp dịu dàng, thanh cao và quyến rũ, trăng được ví như “tố nga”, một từ Hán Việt mang nghĩa vầng trăng đẹp. Trong Truyện Kiều, từ này được sử dụng để giới thiệu hai tiểu thư xinh đẹp, một sự tinh tế đầy ấn tượng. Với câu đầu tiên, Nguyễn Du đã giúp người đọc hình dung được vẻ đẹp thanh cao của Thuý Vân và Thuý Kiều, những người con nhà quyền quý. Khi nhắc đến “mai” và “tuyết”, ta liền nghĩ đến dáng vẻ thanh thoát, uyển chuyển của cây mai và màu trắng tinh khiết, trong sạch của những bông hoa tuyết. Câu thơ “Mai cốt cách tuyết tinh thần” cũng bộc lộ phẩm chất tốt đẹp của hai chị em Thuý Kiều: cốt cách thanh cao và tâm hồn trong sáng.
Câu thơ tiếp theo khẳng định rằng mỗi người trong hai tiểu thư Vân và Kiều đều có một vẻ đẹp riêng và hoàn hảo đầy đủ, “mười phân vẹn mười”. Vẻ đẹp của Thuý Vân là vẻ đẹp phúc hậu, bao gồm khuôn mặt và cử chỉ. Nguyễn Du sử dụng hình ảnh trăng để miêu tả khuôn mặt đầy đặn của cô, kết hợp với nét đẹp thuần hậu của “nét ngài nở nang”. Nụ cười tươi như hoa và lời nói tế nhị và nghiêm trang của Vân càng khẳng định phẩm chất tốt đẹp của cô. Tóc mềm mại như mây và làn da trắng hơn tuyết làm cho Vân trở thành một thiếu nữ đẹp, đức độ.
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tinh tế để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân với những thứ đẹp nhất của thiên nhiên: trăng, con ngài, hoa, ngọc, mây và tuyết. Tuy nhiên, cách miêu tả Vân của ông cụ thể hơn so với Kiều, với việc liệt kê khuôn mặt, lông mày, tiếng cười, lời nói, mái tóc, và làn da, sử dụng những từ láy “trang trọng”, “đầy đặn”, “nở nang”, tạo ra một bức chân dung thật rõ nét. Trong khi chân dung của Thuý Vân báo trước một cuộc sống bình lặng, suôn sẻ, hòa hợp với thiên nhiên và được thiên nhiên chấp nhận, thì với Thuý Kiều, chưa rõ số phận của cô sẽ như thế nào:
Một nhà phúc, lộc gồm hai,
Nghìn năm dẳng dặc, quan giai lần lần.
Thừa gia chẳng hết nàng Vân.
Một cây cù mộc, một sân quế hoè.
Nhan sắc của Thuý Vân và Thuý Kiều mang đến hai phong cách hoàn toàn đối lập. Trong khi nét đẹp của Vân được miêu tả nhẹ nhàng, hiền dịu, thì Kiều lại có nét sắc sảo, quyến rũ. Tuy nhiên, câu thơ đầu tiên để miêu tả Kiều lại khái quát đặc điểm của cô gái này rất tinh tế: sắc sảo về trí tuệ và mặn mà về tâm hồn. Nguyễn Du cũng khẳng định rằng nét đẹp của Kiều vượt trội hơn so với em gái cô ấy, khi ông viết: “so bề tài sắc lại là phần hơn”.
Tuy nhiên, việc miêu tả nhan sắc của Kiều lại được tả ra rất tinh tế và gợi nhiều hình ảnh hơn so với khi miêu tả Vân. Nguyễn Du sử dụng bút pháp ước lệ quen thuộc, nhưng các miêu tả của ông về nhan sắc của Kiều lại vô cùng chi tiết và đầy sức quyến rũ. Người đọc phải suy nghĩ và cảm nhận để hiểu được Tố Như ví đôi mắt của Kiều như nước hồ mùa thu, lông mày thanh thoát như nét núi mùa xuân. Mùa thu, bầu trời xanh và cao hơn, mặt nước hồ phản chiếu bóng trời càng trở nên sâu hơn. Đôi mắt Kiều cũng như làn thu thuỷ: trong vắt, long lanh, sâu lắng, phản chiếu cả tâm hồn nàng. Nguyễn Du đã sử dụng mắt và lông mày để miêu tả nét đẹp của Kiều, vì ông biết rằng đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn, có sức quyến rũ lớn nhất.
Tóm lại, dù hai cô gái có những nét đẹp hoàn toàn đối lập nhau, thì cả hai đều được Nguyễn Du miêu tả vô cùng tinh tế và đầy sức quyến rũ. Tuy nhiên, việc miêu tả nhan sắc của Kiều lại chi tiết hơn và đầy tinh tế hơn, với các hình ảnh và miêu tả đầy tác động.
Nàng Thuý Kiều không chỉ là một người đẹp xuất sắc, mà còn sở hữu tài năng thiên phú mà hiếm ai có thể sánh bằng. Theo tư tưởng của thời kỳ phong kiến, có bốn môn nghệ thuật mà con người cần phải thạo: cầm, kì, thi và hoạ. Trong số đó, Kiều đã khéo léo vượt qua ba môn là cầm, thi và hoạ. Đặc biệt, cô có một tài năng đặc biệt trong nghệ thuật đàn, vượt trội hơn cả những người khác: “Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Nguyễn Du đã mô tả âm thanh của đàn Kiều như một vật phẩm thần kỳ, không thua kém bất cứ âm thanh nào của thiên nhiên. Tuy nhiên, sắc đẹp quá nổi bật của Kiều không được lòng trời, và số phận của cô cũng đầy thăng trầm và bi kịch, giống như nhiều mĩ nhân khác trong lịch sử.
4. Kết bài Phân tích cảm hứng nhân đạo trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều:
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, đoạn trích mô tả về chị em Thuý Kiều được xem là một trong những đoạn miêu tả nhân vật đặc sắc nhất. Với bút pháp ước lệ, Nguyễn Du đã tạo nên một chân dung rực rỡ và đầy sắc thái của chị em Thuý Kiều. Bằng cách ca ngợi tài năng, vẻ đẹp và dự cảm cho một cuộc đời tài hoa nhưng đầy bất hạnh, ông đã thể hiện sự cảm hứng đậm đà về nhân đạo.