Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích của Nguyễn Du là một tác phẩm văn học có giá trị cao về mặt nghệ thuật. Nó cho chúng ta cái nhìn sâu sắc vào tình cảm con người và tâm trạng của nhân vật chính trong hoàn cảnh khó khăn, mời bạn đọc tham khảo.
1. Dàn ý phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn gọn nhất:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Du tác phẩm Truyện Kiều và khát quát nội dung đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
1.2. Thân bài:
– Hoàn cảnh cô đơn, cay đắng xót xa của Thúy Kiều.
– Nỗi thương nhớ chàng Kim và cha mẹ của nhân vật Kiều.
– Tâm trạng đau buồn, lo lắng của Kiều qua cách nhìn cảnh vật bên ngoài.
1.3. Kết bài:
– Tóm tắt lại những đặc sắc nghệ thuật, nội dung của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
– Cảm nhận, suy nghĩ của em về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
2. Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất:
Nguyễn Du là bậc thầy tả cảnh và tả tâm trạng. Ông cho rằng tình cảnh hai yếu tố này không thể tách rời. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích của ông là một bức tranh tâm trạng đầy xúc động, miêu tả nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều, trong đó có nỗi cô đơn, buồn tủi và lòng thủy chung dành cho Kim Trọng và cha mẹ. Kết cấu của đoạn trích rất hợp lý, phần đầu giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng, phần thứ hai tả tâm trạng của nàng, và phần thứ ba là dự cảm về những bão tố cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều. Sáu câu thơ đầu miêu tả thiên nhiên hoang vắng, bao la đến rợn ngợp: núi non trùng điệp, vầng trăng như sắp chạm đầu, và những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này. Người đọc hình dung rất rõ một không gian bao la trải rộng trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều thêm phần xót xa, đau nhói:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Nguyễn Du đã miêu tả rất chi tiết tâm trạng của Kiều khi cô đơn ở lầu Ngưng Bích. Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Những câu từ của Nguyễn Du thật sự đẫm nước mắt khi miêu tả tình trạng tinh thần của Kiều ở thời điểm đó.
Tuy nhiên, không chỉ có tâm trạng của Kiều được miêu tả một cách chi tiết, bức tranh thiên nhiên xung quanh cũng được Nguyễn Du mô tả rất đẹp và tinh tế. Cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.
Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguyễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó.:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.
Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đến thân phận của mình, bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Cô nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, cô thấm thía tình cảnh cô đơn của mình. Hơn ai hết, cô hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc.
Trong đoạn văn, Nguyễn Du miêu tả về tâm trạng của Kiều với sự đau đớn vì nhớ người yêu, nhớ cha mẹ. Tuy nhiên, cô quay trở lại với thực tại của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Tình trạng này được Nguyễn Du miêu tả rất sắc nét bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình.
Tóm lại, đoạn văn miêu tả tình cảm yêu đương đầy xúc cảm của Kiều, tình yêu sâu nặng nhưng lại không thể thành hiện thực. Ngoài ra, Nguyễn Du còn miêu tả một cách rất tinh tế và đầy tình cảm về tâm trạng của cô trong những lúc nhớ người yêu, nhớ cha mẹ và sống với tâm trạng hiện tại của chính mình.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nguyễn Du đã tạo ra một thế giới tươi đẹp và đầy màu sắc, với mỗi cảnh vật được mô tả kỹ lưỡng qua con mắt của Kiều tại lầu Ngưng Bích. Tuy nhiên, dưới sự lấp đầy của cảnh sắc đó là nỗi buồn sâu sắc, khiến cho cảm xúc của người đọc được kích thích mạnh mẽ hơn. Mỗi cặp câu đều gợi lên một nỗi buồn khác nhau, có thể là nỗi buồn xa xăm nhìn ra chân trời xa, hoặc là nỗi buồn trông ngóng một điều gì đó mơ hồ, khó xác định. Kiều có vẻ như đang mong chờ một cánh buồm, nhưng cánh buồm đó chỉ thấy ở xa xôi, không rõ ràng, giống như một ước mơ mơ hồ, ngày một xa cách. Nàng cũng mong chờ một dòng sông mới, với những con sóng đẩy những cánh hoa trôi nổi, nhưng không biết chúng sẽ đưa nàng đi đâu, đến với thân phận nào. Màu xanh rải rác của nội cỏ càng khiến cho nỗi buồn trở nên hiển nhiên hơn trong không gian. Cuối cùng, tiếng sóng ầm ầm quanh ghế ngồi trở thành một nỗi kinh hoàng, khiến cho Kiều cảm thấy như bị nhấn chìm vào vực sâu.
Tám câu thơ trong đoạn trích mô tả cảnh tượng ở lầu Ngưng Bích của Thúy Kiều đã tuyệt vời khi thể hiện được nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng qua việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh. Những từ này đã tạo ra một bầu không khí u ám, tối tăm, khiến cho độc giả càng hiểu rõ hơn về tâm trạng của nhân vật chính. Các cụm từ như “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”, “rầu rầu”, “ầm ầm” đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều.
Với sự kết hợp giữa nghệ thuật tả cảnh ngụ tình và nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn, tác giả đã khéo léo thể hiện được nỗi đau khổ, bất hạnh và sự đánh mất hy vọng của Thúy Kiều. Từ đó, đọc giả cảm nhận được một tâm trạng u uất, đầy sắc màu và cảm xúc.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên và tâm trạng. Nguyễn Du đã rất khéo léo khi sử dụng thiên nhiên để phản ánh tâm trạng của nhân vật. Điều này gợi lên cho người đọc một cảm giác như thiên nhiên đang cùng cảm nhận và đồng cảm với nỗi đau của Kiều. Từng chi tiết được Nguyễn Du mô tả rất tinh tế, từ màu sắc của lá cây, đến âm thanh của những con chim. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều, khiến độc giả cảm thấy như đang trải qua những cung bậc tâm trạng của nhân vật. Việc này cho thấy Nguyễn Du đã có sự đồng cảm sâu sắc với nhân vật và thể hiện tấm lòng cao đẹp của nhân vật. Bằng cách này, tác phẩm giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh và cũng giúp ta có một cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống và con người.
3. Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích ấn tượng nhất:
Nguyễn Du được coi là một trong những nhân vật văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam. Ông đã để lại cho chúng ta một kiệt tác văn học của nền văn học trung đại – Truyện Kiều. Tác phẩm này có giá trị lớn về mặt hiện thực và nhân đạo cũng như nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và tả cảnh ngụ tình. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã để lại một tài sản văn học to lớn cho dân tộc Việt Nam và cả thế giới. Tác phẩm này không chỉ đem lại giá trị văn học mà còn giúp chúng ta hiểu rõ hơn về lịch sử, văn hóa và tâm hồn của người Việt Nam.
Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm văn học của Việt Nam mà còn được đánh giá cao trên thế giới về mặt nghệ thuật. Bằng cách miêu tả nội tâm nhân vật và bút pháp tả cảnh, Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất trong lịch sử. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một ví dụ rõ nét cho điều này. Đoạn thơ này không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện bút pháp đặc sắc về tự sự, về tả cảnh ngụ tình với ngôn ngữ độc thoại nội tâm để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của Kiều.
Cảnh ngộ của Kiều ở lầu Ngưng Bích vô cùng cô đơn, buồn tủi. Đoạn thơ này miêu tả cảm xúc của Kiều khi nàng đang phải trải qua những thử thách khó khăn trong cuộc đời. Kiều bị bỏ rơi trong lầu Ngưng Bích, nơi cô phải đối mặt với nỗi cô đơn và buồn chán. Tuy nhiên, trong cảnh ngộ cô đơn này, Kiều vẫn giữ được tấm lòng thủy chung và hiếu thảo của mình. Điều này đã được Nguyễn Du miêu tả một cách tinh tế và sâu sắc thông qua bút pháp đặc sắc của ông:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Nguyễn Du đã sử dụng nét bút điêu luyện để miêu tả nội tâm của Kiều một cách cặn kẽ. Bằng cách sử dụng từ ngữ “khóa xuân”, Nguyễn Du đã thành công trong việc tạo ra một tình cảnh đầy cảm xúc cho Kiều. Tình trạng của Kiều khi bị giam cầm trong lầu cao, bị khóa kín tuổi xuân bởi những người khác, được mô tả rất chi tiết. Tuy nhiên, tình cảnh này không phải chỉ đơn thuần là việc nàng bị cầm tù trong lầu, mà còn là sự thể hiện của sự chua xót, đau khổ và cô đơn của Kiều. Nàng bị bỏ mặc giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn và bị đày vào chốn lầu xanh ô nhục. Tuy “Lầu Ngưng Bích” là một nơi có phong cảnh tuyệt đẹp, khung cảnh hữu tình, thơ mộng, nhưng trong tình cảnh giam cầm Kiều, khung cảnh này trở nên thật buồn thảm, vắng lặng và cô đơn. Trong cái không gian bao la với “mây sớm đèn khuya”, Kiều cảm thấy như bị những bàn tay tàn bạo bóp nghẹt, khiến cho sự sống của nàng như bị chôn vùi. Nàng trở nên cô đơn hơn bao giờ hết, xa cách với mọi thứ xung quanh, bị giam cầm cách biệt nơi đất khách quê người, xa quê hương và xa người yêu của mình. Tình cảm đơn côi, buồn tủi, chán ngán của Kiều càng được khắc sâu thêm trong tâm trí của độc giả, khiến cho chúng ta cảm thấy sự cô đơn và đau khổ của nàng:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Ở lầu Ngưng Bích Kiều đã nhớ về Kim Trọng trước đó. Kiều nghĩ về những nét bút đặc sắc, độc đáo và phù hợp với tâm lí, thể hiện tấm lòng chung thủy của Kiều. Các từ ngữ “tưởng”, “trông”, “chờ” trong ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Kiều đã làm bật lên nỗi nhớ Kim Trọng khôn nguôi của Kiều. Càng nhớ về lời thề đôi lứa, lời hẹn ước trăm năm ở vườn Thúy Kiều lại càng thương cho Kim Trọng. Chén rượu thề như còn đây mà nay mỗi người như mỗi ngả khiến Kiều cảm thấy ân hận và xót xa như một kẻ phụ tình. Kiều tưởng tượng Kim Trọng đang hướng về mình, “rày trông mai chờ” uổng công vô ích khiến Kiều càng thêm xót xa và thấp thỏm lo lắng. Dù cho mỗi người một phương nhưng tình cảm, tấm lòng son của Kiều dành cho Kim Trọng là mãi mãi và không thể phai mờ. Càng nghĩ đến Kim Trọng, Kiều càng lo lắng và bất an, khiến Kiều bật lên câu hỏi tu từ không biết trên bước đường trôi dạt nơi “bên trời góc bể”. Bao giờ Kiều mới có thể gột rửa sạch những hoen ố của tấm lòng son chung thủy để có thể đáp lại tình yêu của Kim Trọng dành cho Kiều? Ngoài việc nhớ về Kim Trọng, Kiều cũng không ngừng lo lắng cho cha mẹ của mình. Ở nơi lầu cao ấy, Kiều vẫn giữ hình ảnh của những người mà Kiều yêu quý trong tâm trí và mong muốn có thể bảo vệ họ khỏi mọi gian nan và khó khăn :
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Nguyễn Du, tác giả đã tạo ra một nhân vật đầy tình cảm và giàu lòng hiếu thảo, đó chính là Kiều. Với ngôn ngữ độc thoại và lối viết cổ, Nguyễn Du đã mô tả tâm trạng của Kiều một cách rõ nét. Những từ ngữ như “hôm mai”, “cách mấy nắng mưa” đã thể hiện rõ nỗi nhớ mong cha mẹ dài theo năm tháng của nàng. Tình cảm xót thương của Kiều dành cho cha mẹ cô cũng được phản ánh thông qua những thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, “Sân Lai”, “Gốc tử”. Chính vì lo sợ cho cha mẹ, Kiều luôn lo lắng và vô cùng day dứt, áy náy vì chưa làm tròn bổn phận phụng dưỡng cha mẹ của mình.
Dù đã trải qua nhiều gian nan, cảnh ngộ khó khăn khi bị giam lỏng, lưu lạc ở nơi chân trời góc bể, Kiều vẫn luôn tư tưởng đến Kim Trọng và cha mẹ của mình. Tình yêu chân thành và lòng vị tha của Kiều , tấm lòng hiếu thảo của Kiều với cha mẹ mình. Nàng lo sợ ở nơi quê hương, mọi thứ đã đổi thay, cha mẹ nàng lại ngày càng già yếu nên nàng vô cùng day dứt, áy náy vì chưa làm tròn bổn phận phụng dưỡng cha mẹ của người con. Từ đó tấm lòng vị tha và hiếu thảo của Kiều đã hiện lên thật rõ nét, khiến người đọc không thể không cảm nhận được nỗi đau thương sâu sắc trong lòng cô gái trẻ này.
Cảnh vật trong tác phẩm cũng là một yếu tố quan trọng giúp thể hiện tâm trạng của Kiều. Mỗi cảnh vật đều diễn tả một khía cạnh trong tâm trạng của nhân vật. Ví dụ như cánh buồm trên biển giữa mênh mông trời chiều hoàng hôn thật cô độc, lẻ loi. Các miêu tả cảnh vật giúp tăng cường tính chân thực, sống động của câu chuyện, đồng thời làm cho người đọc cảm thấy như mình đang đắm mình trong thế giới tâm trạng của nhân vật:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Trong bức tranh mô tả cảnh chiều tà, khung cửa mở ra để lộ ánh nắng cuối ngày phản chiếu trên mặt biển xanh thẳm, tạo ra những bóng đổ lạ kỳ trên khắp không gian xung quanh. Khung cảnh này gợi nhắc cho chúng ta về những giây phút lưu luyến, khi tất cả mọi thứ trong đó đều được phủ bởi một bầu không khí u ám. Những từ ngữ “thấp thoáng”, “xa xa” được sử dụng để miêu tả cảm giác lẻ loi, đơn độc giống như niềm hi vọng mỏng manh, leo lét của Kiều. Trong cuộc sống, chúng ta có những khoảng thời gian cô đơn như vậy, nơi chúng ta chỉ có thể nhớ về quê hương, nhớ về cha mẹ và chờ đợi một điều gì đó xảy ra.
Cảnh tượng của Kiều ở bờ biển, một mình bơ vơ, mòn mỏi nhớ về quê hương, nhớ về cha mẹ, và chờ đợi một chiếc thuyền đến cứu, nhưng những chiếc thuyền đó chỉ xuất hiện thoáng qua rồi biến mất vào phía chân trời. “Thuyền ai” lênh đênh rồi mất hút về phía chân trời xa như cuộc đời Kiều, không biết đến bao giờ mới có thể trở về quê hương, báo hiếu cho cha mẹ. Ánh mắt của Kiều vẫn hướng về mặt nước, mong muốn có thể nhìn thấy những hình ảnh quen thuộc của quê hương như cánh đồng lúa trải dài vô tận, đứa trẻ vui chơi và nhà nhỏ của mình đang chờ đợi cô trở về.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Cánh hoa yếu ớt, chìm trong dòng nước, chẳng thể đấu tranh với sức mạnh của “ngọn nước mới sa” giống như số phận nhỏ bé của Kiều trong cuộc đời đầy biến động. Bây giờ, Kiều bị lạc lõng, tả tơi trôi theo dòng đời không biết sẽ về đâu giống như bông hoa kia. Nhìn cánh hoa bị đè nén tả tơi ấy, Kiều lại nhớ về Kim Trọng và càng buồn rầu, xót xa vì số phận bất định của mình. Cả mặt nước và cỏ cây đều chứa đựng nỗi buồn sâu thẳm.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
“Ngưng Bích” – tên đầy hy vọng – ánh xanh bắt đầu nối tiếp trời đất qua đôi mắt buồn của Kiều, nhưng sự tuyệt vọng lại nhanh chóng tràn đầy. “Rầu rầu” gợi cho ta hình ảnh của một bãi cỏ tàn úa, xơ xác đến đáng thương. Màu xanh của trời và đất trở nên tàn úa, héo hon, vô vị, tẻ nhạt như số phận của Kiều trên lầu cao. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của Kiều và tài năng của nàng sẽ phai tàn, vô vị như màu xanh héo úa. Màu xanh từng là màu của hy vọng, nhưng giờ đây đã tàn úa như niềm hy vọng của Kiều đang dần cạn kiệt, và nỗi đau xót ngày càng dâng cao trong lòng nàng. Một cảnh tượng im lặng, bỗng nhiên dậy sóng với âm thanh của tiếng sóng “ầm ầm” trong cảnh “gió cuốn mặt duềnh”, như thể những cơn bão phong ba đang chờ đợi Kiều phía trước. Nàng lo lắng không biết khi nào thảm họa sẽ ập đến giống như tiếng sóng dồn dập xa. Tiếng sóng ầm ầm như tiếng của tai họa sắp tới, những cạm bẫy của cuộc đời “kêu quanh ghế ngồi” khiến Kiều sợ hãi. Các từ “buồn trông” đặt ở đầu câu lục bát trong đoạn thơ như tiếng thở dài, cùng với nhịp thơ chầm chậm và những thanh bằng đã nhấn mạnh nỗi buồn càng lúc càng dâng lên trong lòng Kiều, đồng thời hòa cùng cảnh vật càng lúc càng mênh mang và vắng vẻ hơn. Những từ láy “xa xa”, “thấp thoáng”, “man mác”, “rầu rầu”, “xanh xanh”, “ầm ầm” như những con sóng dằn vặt và buồn tủi dâng tràn trong lòng Kiều.
Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ đặc sắc nhất trong Truyện Kiều, tác phẩm văn học kinh điển của Việt Nam. Nó miêu tả một cảnh ngụ tình sâu sắc và tinh tế, giúp ta hiểu thêm về nhân vật Kiều – một người tình chung thuỷ, một đứa con hiếu thảo và với trái tim giàu lòng vị tha.
Đoạn thơ này cũng chứng tỏ được tài năng và trái tim biết sẻ chia, biết yêu thương của tác giả Nguyễn Du đối với nhân vật và cuộc đời. Sự kết hợp bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện trong đoạn thơ đã làm nổi bật cảnh ngộ của Kiều, từ đó chứng minh được sự tài hoa của tác giả.
Điều đặc biệt của đoạn thơ này là sự kết hợp giữa việc miêu tả cảnh ngụ tình và tâm lý nội tâm của nhân vật. Nhờ đó, đoạn thơ không chỉ tạo nên sức hút đặc biệt cho câu chuyện mà còn khiến người đọc cảm nhận được sự sâu sắc, tinh tế của tác giả.