Cảm nhận nỗi oan khuất của Vũ Nương chọn lọc hay nhất

Nỗi oan của Vũ Nương trong Chuyện người con
gái Nam Xương là một chi tiết quan trọng nên nội dung đặc sắc của tác phẩm. Bài
viết dưới đây sẽ giúp em phân tích nỗi oan và cái chết của Vũ Nương, từ đó hiểu
tác phẩm một cách đầy đủ và sâu sắc. Hãy cùng nhau tìm hiểu.

1. Gợi ý làm bài cảm nhận nỗi bất hạnh của Vũ Nương:

– Vũ Nương là người vợ thủy chung nhưng lại bị chồng nghi oan, đối xử bất công, tàn nhẫn.

– Nghe lời nói ngây thơ của một đứa trẻ, Trương Sinh đã vu oan cho vợ, từ hôn rồi đuổi nàng đi mặc cho nàng khóc lóc van xin và hàng xóm bao biện.

– Vũ Nương vô cùng đau đớn vì bị chính người chồng mình yêu nghi ngờ, bôi nhọ nhân phẩm.

– Bế tắc, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để giải oan, thoát khỏi cuộc đời đầy đau thương và bất công, mang ý nghĩa cho câu chuyện.

– Phản ánh hiện thực xã hội phong kiến đương thời với nhiều bất công (trọng nam khinh nữ, phân hóa bần nông, chiến tranh phi nghĩa,…).

– Khắc họa rõ nét một bức tranh về cuộc đời – số phận của người phụ nữ thời bấy giờ, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

– Thể hiện sự trân trọng của nhà văn đối với những ước mơ chính đáng, những khát vọng cao cả như: khát vọng hạnh phúc, ước mơ công bằng xã hội,…

– Thể hiện niềm xót thương, cảm thông sâu sắc của tác giả đối với số phận người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương.

– Lên án, phê phán, tố cáo xã hội phong kiến chà đạp lên quyền sống của con người.

– Phản ánh những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương.

– Nguyên nhân dẫn đến nỗi oan của Vũ Nương là gì?

Nguyên nhân trực tiếp:

– Lời nói ngây thơ của bé Đản vô tình khiến Trương Sinh hiểu lầm.

– Nguyên nhân đáng tiếc nhất dẫn đến cái chết oan uổng của Vũ Nương chính là tính đa nghi, vô học của Trương Sinh. Khi nghe những lời nói ngây thơ của đứa trẻ, anh ta muốn phân xử đúng sai hay nghe những lời giải thích đã giết vợ mình. Chính sự ngang tàng, hống hách, thói hư tật xấu của Trương Sinh là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến cái chết của Vũ Nương. Nếu Trương Sinh là người tỉnh táo và biết suy nghĩ thì có lẽ đã không xảy ra chuyện này.

Nguyên nhân gián tiếp:

– Nam tính độc đoán, một xã hội mà đàn ông và phụ nữ không bình đẳng, hôn nhân không có tình yêu và tự do.

– Lập chiến tranh phong kiến phi nghĩa.

2. Cảm nhận nỗi oan khuất của Vũ Nương chọn lọc hay nhất:

Hình tượng người phụ nữ trong xã hội xưa là đề tài của nhiều tác phẩm văn học trung đại và đó cũng là nguồn cảm hứng trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du. Là một nhà văn có trái tim dịu dàng, nhân hậu, bà đã viết “Chuyện người con gái Nam Xương” để làm nổi bật vẻ đẹp của Vũ Nương qua bi kịch cuộc đời người phụ nữ này. Nguyễn Du, bày tỏ lòng kính trọng trước những vẻ đẹp giản dị mà cao cả của người phụ nữ cũng như đồng cảm với những bất hạnh mà họ phải chịu đựng suốt cuộc đời. Ta có thể cảm nhận rõ điều này qua 3 câu thoại của Vũ Nương khi nàng bị vu oan, bị chồng truy đuổi và trước khi gieo mình xuống sông Hoàng Giang.

“Chuyện người con gái Nam Xương” dựa trên truyện “Vợ chàng Trương” với nhân vật chính là Vũ Nương. Chị là một người phụ nữ đức hạnh, khao khát một cuộc sống bình yên, hạnh phúc nhưng lại rơi vào bi kịch của cuộc đời khi bị người chồng đa nghi, bội bạc vì không giữ đạo. Cô tìm hết cách này đến cách khác để chứng minh, giải thích nhưng tất cả đều vô nghĩa. Không còn cách nào khác, Vũ Nương đã chọn con đường tự kết liễu đời mình để rửa oan cho chính mình.

Truyện ngắn với cách xây dựng cốt truyện tập trung vào nhân vật Vũ Nương. Tạo tình huống độc đáo, bất ngờ, miêu tả nhân vật qua lời nói, hành động để bộc lộ tính cách. Sử dụng gần đúng câu văn biền ngẫu có yếu tố diễn xướng kết hợp với lời thoại kì ảo. Sự hòa quyện giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn xuôi và thơ; Cách viết của chị, mạch lạc, chặt chẽ, hài hòa, sinh động đã góp phần khắc họa nhân vật Vũ Nương, một người phụ nữ xinh đẹp nết na nhưng lại có số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Ta thấy ở Vũ Nương tập trung ở Vũ Nương những phẩm chất cao quý truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Cô ấy xứng đáng có một cuộc sống hạnh phúc. Nhưng thực tế phũ phàng đã đẩy cô vào hoàn cảnh bất hạnh, bất công, bất công. Cô ấy vốn là một người phụ nữ rất chung thủy, nhưng giờ cô ấy lại bị nghi oan là mất trinh. Chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ mà Vũ Nương đã bị chồng ruồng bỏ, hắt hủi, đánh đập, xua đuổi, gán cho tội danh nhục nhã nhất đối với tiết hạnh của người phụ nữ.

Khi chồng đi lính trở về, tưởng chừng gia đình đoàn tụ, chấm dứt cảnh chia ly, cậu bé Đan đã không nhận ra cha mình và lời nói ngây thơ của một đứa trẻ đã nói với Trương Sinh rằng bố Đan mỗi đêm đến Vũ Nương đi đâu, người đàn ông đó đi theo và không bao giờ bế Đan. Khó tính hay ghen, nghe câu nói này Trương Sinh đã một mực cho rằng Vũ Nương đã mất bình tĩnh. Bởi vậy, khi về nhà, anh nói: “la um lên cho hả giận”.

Tuy nhiên, cô vẫn bị chồng “ăn miếng trả miếng”. Trương Sinh chỉ dùng lời ám chỉ này để giễu cợt nàng rồi đuổi nàng đi. Hàng xóm xúm lại vô cùng bênh vực cô cũng chẳng ăn thua gì. Chị thở dài ngao ngán khi không hiểu vì sao mình bị nghi ngờ và đối xử bất công: “Xây dựa vào anh ấy vì anh ấy có được niềm vui gia đình êm ấm. Nay bình đã rơi, mây tan, sen huy hoàng trong ao, héo úa trước gió; Tuyết rơi mưa rào, mùa xuân én rời bầy, nước sâu buồn, đầu còn có thể đến núi Vọng Phu. Tuyệt vọng đến tột cùng khi những khao khát mà cô đã gây dựng cả đời tan tành mây khói. Tình yêu không còn nữa. Thậm chí, nỗi đau chờ chồng hóa đá như xưa cũng không thể thực hiện được nữa. Bị chồng từ chối là nỗi bất hạnh lớn nhất của người phụ nữ. Sự phủ nhận đó chứng minh tất cả, không tin tưởng, không yêu, không tin vợ. Và không có gì đau đớn hơn nỗi bất hạnh đó đối với người phụ nữ cả đời lo cho chồng con cũng như gia đình chồng. Lễ giáo phong kiến với những hủ tục bất công đã khiến người phụ nữ không được tôn trọng trong xã hội, ngay cả hạnh phúc cá nhân cũng không được tự do lựa chọn. Sự thất bại trong xã hội phong kiến còn thể hiện ở tính độc đoán của người chồng, được toàn quyền quyết định mọi việc trong nhà, bỏ mặc oan ức cho vợ nhưng không nói thẳng với vợ, cũng không nghe vợ giải thích, v.v.. . Đánh và đuổi vợ đi.

Anh chồng lên án vợ nhưng không chịu nghe cô thanh minh lấy một lời. Sự khinh bỉ, lời nói xúc phạm và hành động vũ phu của Trương Sinh đã khiến nàng phải tìm đến cái chết. Uất ức và tủi nhục, Vũ Nương đã chọn cái chết để khẳng định phẩm giá trong sạch của mình. Trước khi chết, nàng lập lời thề: “Người xui xẻo này mệnh khôn, chồng con buông xuôi, đâu ràng buộc, mang tiếng ô nhục, thần sông có linh hãy chứng giám. yêu áo dài giữ trinh, yêu trinh tiết, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngư Mỵ, nếu không thích cá, mầy sẽ ăn gian và ăn gian, dưới làm mồi cho tôm cá, trên làm cơm cho quạ, bị mọi người phỉ nhổ”. Cuối cùng, Vũ Nương gieo mình xuống sông tự vẫn, hành động dứt khoát này thể hiện khát vọng giữ gìn phẩm giá, tiết hạnh và danh dự của người phụ nữ. Dòng thơ là một lời than thở, một lời nguyền xin thần sông kiểm soát sự bất công và trinh tiết của cô. Những dòng thơ thể hiện nỗi thất vọng tột cùng, nỗi đau đớn tột cùng của một người phụ nữ đoan chính nhưng bị phụ tình nên đã tự chuốc lấy cái chết. Những lời trăn trối cuối cùng của bà, cái lưỡi của tất cả những ngang trái của một đời đàn bà: công nuôi con, đợi chồng vô ích; hạnh phúc gia đình (thân ái không thành) tan vỡ, tình nghĩa vợ chồng không còn (bình rơi, trâm gãy, mây tạnh mưa, sen rũ trong ao, héo úa trước gió), nỗi buồn đau chờ đợi cô chồng đến. Việc hóa đá trước đây không còn có thể được thực hiện lại. Cô ấy có thể hy sinh tất cả, nhẫn nhịn vì chồng con, thà chết mà không mang nỗi nhục này. Cô chết để thanh minh cho lương tâm mình trong sáng, không phụ lòng người. Những người phụ nữ bé nhỏ, không làm chủ được cuộc sống của mình đã phải chịu nhiều sóng gió, phó mặc mạng sống của mình cho người khác. Chi tiết Vũ Nương gieo mình xuống bến sông Hoàng Giang là một hình ảnh mạnh mẽ khiến người đời mãi xót xa cho bức tranh bi thương đầy nước mắt của một người phụ nữ xinh đẹp chịu nhiều bất công, đòn roi. Bi kịch của cái đẹp bị chà đạp, bị làm nhục, bị đánh đập không thương tiếc là bản án nhanh gọn, đanh thép tố cáo bộ mặt tàn bạo, phi nhân tính của xã hội phong kiến đương thời.

Đối với Vũ Nương tìm đến cái chết là tìm đến một giải pháp tiêu cực nhất. Nhưng dường như đó là cách duy nhất để thoát khỏi hoàn cảnh của cô. Đó cũng là con đường duy nhất mà người viết có thể lựa chọn. Hành động rình rập cô ấy vẫn là của cô ấy như một hành động quyết định cuối cùng để bảo toàn danh dự của cô ấy. Bởi đối với cô, sản phẩm cao hơn cả cuộc sống.

Bi kịch của Vũ Nương dẫn đến bài học đồng điệu về giữ gìn hạnh phúc gia đình. Đó là lời cảnh tỉnh cho người phụ nữ khi xảy ra biến cố gia đình. Dù có chuyện gì xảy ra bạn cũng phải bình tĩnh, kiên nhẫn và nhìn nhận vấn đề theo hướng tích cực. Đã có nhiều ý kiến đề nghị tránh cho Vũ Nương cái chết. Tuy nhiên, vì kiêu hãnh, cô đã không nhìn thấy.

Các biến thể câu chuyện là khá đơn giản. Cốt truyện không có gì mới so với các truyện cùng thời. Với nhà văn Nguyễn Du không chỉ thành công ở thể loại truyền kỳ mà còn là một người có tấm lòng nhân đạo, ông đã bày tỏ niềm tiếc thương đối với Vũ Nương bằng những lời lẽ tốt đẹp nhất để ca ngợi vẻ đẹp của nàng. Đó cũng là một đóng góp thành công cho tác phẩm.

Tác phẩm kết hợp nhuần nhuyễn và nhuần nhuyễn các phương thức tự sự, trữ tình và kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, tục ngữ và thơ ca. Văn của chị trầm lắng, thấm thía, chặt chẽ, hài hòa, sinh động. Tương truyền Mạn Lục là mẫu mực của thể truyền thống, là “thiên cổ kỳ bút”, là “văn hay của bậc vĩ nhân”, tiêu biểu cho thành phẩm của văn học tượng hình viết bằng chữ Hán chịu ảnh hưởng của nghệ thuật dân gian.

Càng đọc truyện, càng ngẫm nghĩ, càng thương Vũ Nương, một người phụ nữ đảm đang, thủy chung và đặc biệt là xã hội đã gián tiếp gây ra bất hạnh cho nàng. Cảm ơn tác giả đã cho các em hiểu biết phần nào về tình hình xã hội và con người của một thời đã qua. Nỗi lòng và nỗi oan của người thiếu nữ đã lấy nước mắt của người dân Việt Nam suốt mấy trăm năm qua là thế, bắt đầu trong ta sự cảm thông, kính trọng và trân trọng những người phụ nữ giỏi giang được mọi người đón nhận. hạnh phúc xứng đáng.

3. Cảm nhận nỗi oan khuất của Vũ Nương chọn lọc ý nghĩa nhất:

“Chuyện người con gái Nam Xương” rút trong tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục”, một tác phẩm văn xuôi chữ Hán của Nguyễn Dữ vào thế kỷ XVI. Một kiệt tác văn học cổ được ca tụng là “thiên cổ kỳ bút”. .

Truyện kể lại một câu chuyện huyền thoại mang nhiều yếu tố cung đình được lưu truyền trong dân gian về một bi kịch gia đình ở Nam Xương bên sông Hoàng Giang vào cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15, loạn lạc. Nhân vật Vũ Nương là một cô gái đáng thương, kém may mắn với nhiều phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho đức hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

Bà tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, thuộc phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam ngày nay. Xuất thân trong một gia đình “có phúc, có khó”, nhưng Vũ Nương vừa có nhan sắc vừa có đức hạnh: “tính tình thùy mị, hiền lành, có chí hướng”. Nàng là một cô gái danh giá nên Trương Sinh, con nhà giàu “yêu vì sướng” đã xin mẹ vợ một trăm lạng vàng để cưới làm vợ. Đối với đạo nghĩa vợ chồng, Vũ Nương là người phụ nữ thông minh, nhân hậu, biết chồng “đa nghi”, nàng đã “giấu kín” không để hai vợ chồng “bất hòa”, sống giữa cuộc đời. Trong lúc loạn lạc, Trương Sinh phải tòng quân chinh chiến nơi biên ải xa xôi. Sau khi tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã nốc cạn chén rượu của chồng và “được hai chữ bình yên”: nàng ước mơ được đeo ấn mặc áo gấm trở về quê cũ… Tâm nguyện của nàng thật giản dị, bởi vì cô coi hạnh phúc gia đình trên tất cả những danh lợi phù phiếm ở đời. Trong những năm tháng xa cách, Vũ Nương vừa thương vừa nhớ chồng đã không tiếc lời: “… mỗi lần thấy bướm lượn quanh vườn, mây giăng núi rừng, phía chân trời không khỏi bùi ngùi”.

Tâm trạng buồn đó của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của kẻ chinh phụ trong mọi náo động năm xưa:

… “Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…”
(Chinh phụ ngâm)

Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa đồng cảm với nỗi đau khổ của Vũ Nương vừa chung thủy đợi chồng. Vũ Nương là một người phụ nữ dũng cảm và đáng yêu. Chỉ một tuần sau khi chồng ra trận, chị sinh hạ một cậu con trai tên Đản. Mẹ chồng già yếu, lại “cực phẩm dược”, “ngoan, không khéo, đãng trí”. Vừa chăm mẹ già, vừa chăm con nhỏ. Khi mẹ chồng mất, cô cũng “xót xa”, tang lễ được lo liệu, tổ chức rất chu đáo “như bố mẹ ruột”. Qua đó, ta thấy ở Vũ Nương cùng xuất hiện 3 người con xinh đẹp: người con dâu hiếu thảo, người vợ thủy chung, người mẹ hiền. Đó là hình ảnh người phụ nữ lý tưởng trong xã hội phong kiến xưa.

Năm sau “đi lính xong, Trương Sinh từ phương xa trở về Nhưng Vũ Nương không được hưởng hạnh phúc trong cảnh lứa đôi gặp nhau. Chỉ vì bóng một đứa con thơ biết nói mà Trương Sinh coi như một vợ xấu, “khỏe” và “trời đánh” Là kẻ vô học và lăng nhăng, Trương Sinh phớt lờ mọi lời “thú tội” của vợ và cả “tờ giấy trắng” của gã chồng hàng xóm, Vũ Nương bị đưa vào bi kịch oan trái. Bị tố là người vợ “thất sủng”, Vũ Nương phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để giả làm gái giang hồ “Mỵ Ngọc Nương xuống nước mãi sáng cùng động” xuống nước làm Mỵ Ngọc Nương, xuống âm phủ để xin cỏ Ngự Mỹ”. Bi kịch Vũ Nương là bi kịch gia đình xuất phát từ chuyện chồng con mà nguyên nhân là chiến tranh, loạn lạc. Chỉ một thời gian ngắn, sau khi Vũ Nương tự vẫn trong một đêm tắt đèn, lũ trẻ nói: “Bố về rồi!”. Lúc ấy Trương Sinh “vừa mới thức tỉnh trước sự bất công của vợ mình, nhưng sự việc đã kết thúc. Người đọc chỉ biết thở dài, Nguyễn Du chạnh lòng thương cho người con gái Nam Xương và biết bao người phụ nữ bất hạnh khác. Trong một kiếp người, Vũ Nương tự vẫn, nàng vẫn còn oán hận chồng con vì đã “đi xin chén nước oan cho người” (Truyện Kiều).

Kết thúc của câu chuyện đầy ma thuật. Đây là Phan Lang nằm mơ thấy cô gái áo lam cầu xin tha mạng. Phan Lang được phép ôm mai rùa nhưng không được giết mà nhà rùa đã thả rùa xuống sông. Đây là cảnh Phan Lang chết đuối, xác dạt vào đảo. Linh Phi, vợ của Nam Hải, lấy một chiếc khăn và đổ một lọ thuốc thần lên người. Phan Lang sống lại. Linh Phi xuất hiện trên gác xép của Triều Dương để chữa bệnh cho Phan Lang, ân nhân cứu mạng năm xưa của nàng. Chuyện Phan Lang gặp Vũ Nương trong bữa tiệc của Linh Phi. Vũ Nương bật khóc khi Phan Lang nhớ lại ngôi nhà và mồ mả của tổ tiên. Rồi Vũ Nương sai xe vàng cho Phan Lang đón chồng về lập dàn nhạc ở bến Hoàng Giang. Hình ảnh Vũ Nương ngồi trong kiệu hoa, sau chiếc xe năm bánh nhẹ nhàng với tán lá che mát cả khúc sông, lúc ẩn, lúc hiện… là những chi tiết hoang đường nhưng lại tô đậm nỗi đau của người phụ nữ. bạc nữ. … hãy yên nghỉ, và đáng báo cáo những nghi lễ phong kiến vô nhân đạo này. Câu nói của hồn ma Vũ Nương giữa dòng sông: “Ơn nghĩa, nỗi nhớ có thể trả lại nhân gian” đã làm tăng thêm giá trị nhân đạo bi tráng của truyện. Tình cảm của Vũ Nương được minh oan và giải thoát nhưng âm dương hai lần trở lại, nàng mơ thấy mình không thể trở về dương giới, không bao giờ được làm vợ, làm mẹ nữa. Bé Đan mãi mãi là đứa trẻ mồ côi.

Tóm lại, Vũ Nương là một cô gái hạnh phúc và kém may mắn. Nguyễn Du đã kể lại cuộc đời đau khổ của nàng với lòng cảm thông sâu sắc. Tuy có yếu tố cung đình nhưng “Chuyện người con gái Nam Xương” khôn ngoan lại có giá trị nhân đạo. Nhân vật Vũ Nương là điển hình cho bi kịch của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Người đọc càng xúc động hơn khi nhớ lại câu thơ của vua Lê Thánh Tông trong bài  “Lại bài viếng Vũ Thị”:

… “Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng…”

Theo dõi chúng tôi trênDuong Gia FacebookDuong Gia FacebookDuong Gia TiktokDuong Gia TiktokDuong Gia YoutubeDuong Gia YoutubeDuong Gia GoogleDuong Gia Google
5/5(1
bình chọn
)

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com