Phân tích bức tranh thiên nhiên và con người trong bài Chiều tối được chúng tôi tổng hợp các mẫu hay nhất dưới đây. Hi vọng sẽ giúp các bạn học sinh có thêm tài liệu để ôn tập. Cùng tham khảo nhé.
1. Dàn ý Phân tích bức tranh thiên nhiên và con người trong bài Chiều tối:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nêu nội dung tác phẩm Chiều tối
Tác giả Hồ Chí Minh
Bài thơ “Chiều tối” trong “Nhật ký trong tù”
Tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và ý chí cách mạng của người tù
1.2. Thân bài:
– Bức tranh thiên nhiên núi rừng về đêm:
Những hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ: cánh chim, đám mây
Không lớn, vắng vẻ
Gợi cô đơn, mệt mỏi, lạc lõng
– Bức tranh đời sống con người trong chiều tối:
Cuộc sống cuộc sống lao động hàng ngày
Dấu hiệu của sự sống, sức sống
Ánh sáng lò than mang lại hy vọng và niềm tin
1.3. Kết bài:
Giá trị tác phẩm: Bài thơ “Bữa tối” thực sự là một bức tranh đẹp, hài hòa giữa các mảng sáng tối, thiên nhiên và con người.
2. Phân tích bức tranh thiên nhiên và con người trong bài Chiều tối hay nhất:
Bác Hồ – vị cha già muôn thuở kính yêu của dân tộc, người đã mở đường cứu nước, giúp dân tộc ta giành độc lập, tự do, thoát khỏi ách ách nô lệ gian ác. Hắn không chỉ là một tay lừa đảo đầy trí tuệ, tinh thông văn hóa các dân tộc mà còn là một người am hiểu văn chương, thơ ca. Nhật ký trong tù của ông là một trong những tập thơ hay nhất của nền thơ ca Việt Nam. Tập thơ đó được viết trong những năm ông bị giam trong nhà ngục Tưởng Giới Thạch. Mỗi bài thơ là một câu chuyện anh kể về cuộc đời trong tù, về ước mơ, khát khao được tự lập của mình. Trong số đó, bài thơ Chiều tối là bài thơ hay nhất, là bức tranh thiên nhiên và con người hòa quyện vào nhau.
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
Dịch thơ:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Trong cả tập thơ Nhật ký trong tù, có lẽ bài thơ Chiều tối là bài thơ có hoàn cảnh ra đời đặc biệt nhất. Bài thơ giàu cảm hứng và được viết sau khi Bác Hồ phải chuyển nhà tù từ Tịnh Tây về nhà lao Thiên Bảo. Và trong thời gian đó, ông đã viết Chiều tối để vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đẹp mộng mơ và bức tranh cuộc sống của con người trong buổi chiều tà. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, bài thơ vừa là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, vừa thể hiện ý chí quyết thắng mọi hoàn cảnh của Hồ Chí Minh.
Mở đầu bài thơ, Người đã vẽ lên cho người đọc thấy một khung cảnh thiên nhiên đẹp tới mơ màng, một khung cảnh vừa nhẹ nhàng, êm dịu, vừa đằm thắm, sinh động biết nhường nào:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Dịch thơ:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”.
Mở đầu bài thơ cổ chỉ bằng vài nét bút, Hồ Chí Minh đã cho ta thấy một không gian rất rộng lớn, mơ hồ và thoáng đãng. Đó là bầu trời với những cánh chim chao liệng “quyện điểu”, thoắt ẩn thoắt hiện trở về rừng, và những đám mây “cô vân” lẻ tẻ bồng bềnh trên không trung. Hai câu thơ bật lên, chỉ tả chứ không tả, nhưng cái hồn của cảnh vẫn hiện lên rõ nét. Khung cảnh hiện ra thật bình dị: cảnh chiều tà với đàn chim mỏi vỗ cánh tìm nơi trú ẩn và những đám mây lẻ loi lững lờ trôi giữa tầng bao la. Không sao có một từ để chỉ cảnh chiều, nhưng mới đọc qua hai câu thơ, người đọc vẫn nhận ra ngay đây là một buổi chiều hoàng hôn bồng bềnh. Nghệ thuật lấy điểm tả thực đã phát huy hết sức sáng tạo của Người.Chỉ nhìn cánh chim kia, tầng mây kia, người ta dường như thấy được cả không gian đang trải rộng ra, bầu trời cao hơn, mênh mông hơn còn không gian thì thật êm đềm, tĩnh lặng. Chỉ là nét chấm phá nhẹ nhàng cơ bản, nhưng bức tranh thiên nhiên ở đây đã hiện lên thật đầy cảm xúc và màu sắc.
Cũng như Nguyễn Du đã từng cảm thán:
“Chim hôm thoi thót bay về rừng”
Ở đây, Hồ Chí Minh cũng làm như vậy. Chỉ với cánh chim chao nghiêng trên bầu trời chiều, ông đã gợi lên ý tưởng không chỉ về không gian mà cả về thời gian. Chỉ với hai câu thơ vô cùng giản dị, ông đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thanh bình, tĩnh lặng. Tôi không thích cánh chim trong câu thơ “chim bay lên núi cao” hay trong thơ Nguyễn Du có sự chuyển động của cánh “bay”, cánh chim trong thơ ông chỉ lướt nhẹ trên mây. vì rất mệt, chỉ muốn lướt thật nhanh để tìm chỗ “ngủ quên” trong khu rừng của mình. Hình ảnh đàn chim trong thơ Hồ Chí Minh lung linh như một nỗi niềm tâm trạng, cảm xúc sâu lắng.Cánh chim ấy có chăng chính là cảm xúc của Người trên con đường di chuyển tới nhà lao, mỏi mệt chỉ muốn tìm một “chốn ngủ”, chốn trú chân trong cuộc hành trình để rồi ngày mai lại tiếp tục một hành trình mới? Có thể nhận ra rằng dường như có một sợi dây vô hình tương đồng nào đó trong cánh chim kia với tâm trạng của Người hay chăng?
Không gian chiều tối ấy trong bài thơ, không chỉ có cánh chim chao lượn mà còn có cả những áng mây bồng bềnh. Người ta đã từng thấy nhiều áng mây khác trong thơ của Nguyễn Khuyến:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
Hay trong thơ của người xưa:
“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”
Nhưng ở trong thơ Hồ Chí Minh, mây ấy lại khác vô cùng:
“Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Khác với Nguyễn Khuyến viết về mây trong tiết trời thu, không buồn như thơ Đỗ Phủ với “mây đốt ngoài cổng”, mây trong thơ ông ẩn hiện như chuyển động, dù chuyển động chỉ rất nhẹ nhàng. nhẹ”:
“Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Dù là vật liệu rất quen thuộc nhưng anh vẫn chế tạo cho nó một thứ vô cùng độc đáo. Mây chiều gợi lên một nỗi cô đơn khó tả, đọc thơ ông cho ta cảm giác một không gian vắng vẻ, hiu quạnh. Chỉ có một “đám mây” “cô Vân” riêng lẻ, lững lờ trôi nhẹ, buông lơi trên “tầng không trung”. Phải chăng “đám mây” ấy chính là con người cô đơn, lẻ loi, hoang mang, lo lắng cho tương lai của người tù rồi sẽ đi về đâu?
Tóm lại, chỉ với hai câu thơ ngắn ngủi nhưng Hồ Chí Minh đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thôn quê thật yên bình với những cánh chim trên trời và những đám mây bồng bềnh. Cánh chim trong thơ anh không lạc vào khoảng không vô tận như thơ Lý Bạch “chim mọc vịnh cao”, mà nó đang bay trong nhịp điệu êm đềm bất tận của cuộc sống hiện thực: sáng đi kiếm ăn, chiều về. vào buổi tối. Ngủ. Và đám mây ấy, không vội vã, buồn bã mà cũng trôi thật bình yên trong không gian yên bình. Qua đó ta mới biết rằng, dù ở trong tù, phải sống lưu vong nhưng Bác Hồ vẫn giữ được hồn thơ và ý chí của mình hơn hết, nhờ đó Bác có thể cảm nhận được khung cảnh thiên nhiên, bức tranh thiên nhiên thật đẹp và trong lành. bình yên trong buổi chiều. Quả là một ý chí “thép” của một nhà cách mạng! Ta còn thấy trong đó sự thảnh thơi, phong thái vui vẻ của nhà thơ dù đang ở trong gông cùm, ngục tù.
Nếu như ở hai câu đầu, nét vẽ phóng khoáng của Hồ Chí Minh gợi lên khung cảnh thiên nhiên thanh bình trong buổi chiều tà, thì ở hai câu sau, Người đã vẽ lại khung cảnh sinh hoạt của con người nơi thôn quê:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”.
Vẫn là bút pháp chấm quen thuộc, nhưng ở đây Hồ Chí Minh vẫn sử dụng bút pháp ước lệ của thơ cổ khi vẽ lên hình ảnh cô thôn nữ miền sơn cước. Vì thế, bức tranh nhân sinh hiện lên chân thực, sống động. Trên nền không gian thôn quê, hình ảnh cô thôn nữ trở thành nhân vật trung tâm của bức tranh. Dù lê chân trong xiềng xích nhưng Hồ Chí Minh vẫn cảm nhận được chân lý và vẻ đẹp của nhân dân lao động.
Nếu như ở hai câu thơ trên, hình ảnh thiên nhiên đang đi dần vào bóng tối, đàn chim cũng đang trở về tổ nghỉ ngơi sau một ngày mệt mỏi, và những đám mây cũng đang nhẹ nhàng trôi trên bầu trời, thì ở hai câu thơ sau, nhịp điệu của bài thơ trở lại một cách nhanh chóng. Dứt khoát lên thể hiện nhịp sống của nhân dân lao động. Khi thiên nhiên đang dần bước vào giai đoạn nghỉ ngơi thì con người vẫn đang tiếp tục cuộc sống thường nhật và dường như nhịp sống đó càng gấp gáp hơn. Con người lúc này trở thành chủ thể trung tâm của bức tranh thiên nhiên. Cô thôn nữ trong bức tranh thơ đang cần cù lao động cần được tôi luyện, không ngừng, “ma che” rồi “ma vòng” – một vòng tuần hoàn. Những chu kỳ cứ lặp đi lặp lại đó là xay ngô và thời gian cứ thế trôi đi trong im lặng. Con người trong thơ Bác ngẩn ngơ, buồn như trong thơ Huyện Thanh Quan:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Nhưng người dân nơi đây, dù đã khuya nhưng họ vẫn tất bật đi lại và làm việc trong cuộc sống thường ngày. Chính hành động ấy đã góp phần tăng thêm sự sinh động, thêm hơi ấm con người cho bức tranh thiên nhiên thanh bình ấy. Con người trong chiều tối đã trở thành chủ nhân của thiên nhiên, nhưng lương thiện lại bị thiên nhiên cưỡng bức như trong thơ cổ. Hai câu thơ miêu tả thiên nhiên thật tĩnh lặng, tĩnh lặng dẫn đến đâu, hai dòng này chợt nổi lên. Chắc chắn. Chính cuộc sống của con người đã đem lại sự ấm áp cho cảnh thiên nhiên. Không chỉ vậy, ông còn gọi cô gái đang xay ngô bên bếp lửa là “cô thôn nữ” – một từ gợi nhiều cảm xúc. “Thiếu nữ” – người con gái trẻ trung, căng tràn sức trẻ, đó là tiếng gọi thân thương, trìu mến, gợi niềm vui hân hoan khi bắt gặp con người nơi hoang vu này.
Hơn nữa, hình ảnh “chị núi” không đơn độc xuất hiện như chú chim trên mà bên cạnh là cả một “lò” nóng đang dần “lửa hồng”. Trong một buổi chiều muộn, khí trời đang dần se lạnh, ngọn lửa đỏ rực thực sự làm ấm lòng người. Nó không chỉ sưởi ấm không khí mà còn sưởi ấm cả tâm hồn thi nhân. Thật ấm áp và hiểu biết. Ngọn lửa “rực lửa” ấy qua con mắt tinh tế của nhà thơ còn thể hiện niềm đam mê lạc quan và niềm tin của người cộng sản rằng ngày mai sẽ luôn tươi sáng hồng hào như ngọn lửa kia.
Mỗi câu thơ trong Chiều tối của Hồ Chí Minh đều mơ màng về một khái niệm thời gian nhưng từ nhìn vào bức tranh thiên nhiên rồi đến bức tranh con người, người đọc vẫn nhận ra sự quay của thời gian theo cánh chim. , theo mây, theo những vòng xay ngô của cô thôn nữ. Khi cô thôn nữ xay ngô, bếp lửa cũng đỏ rực, nghĩa là trời đã tối. Đêm trôi qua rồi tối đến, nhưng buổi tối của đêm không âm u mà rất ấm áp và rất rực rỡ vì có ngọn lửa hồng thắp sáng vạn vật. Sự vận động, luân chuyển liên tục từ sáng đến tối rồi từ tối đến sáng. Nếu như cả bài thơ là một bầu trời hiu quạnh, hiu quạnh thì hai câu thơ cuối với sự xuất hiện của con người và bếp lửa đã làm ấm lòng nhà thơ và người đọc. Cô thôn nữ và bếp hồng thắp lửa sưởi ấm cảnh cô quạnh của người tù xa quê hương. Từ đó, nó như tiếp thêm cho người bị xiềng xích niềm tin, sức mạnh, sự lạc quan để vượt qua nghịch cảnh khó khăn này.
Bài thơ Chiều tối là sự kết hợp giữa bức tranh thiên nhiên và bức tranh con người lao động. Bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng nhưng bức tranh con người lại sống động, chân thật và ấm áp vô cùng. Đại khái bức tranh là tâm hồn yêu thiên nhiên, lạc quan, tin tưởng của những con người xa quê trong cuộc sống, vượt qua nghịch cảnh.
Với thể thơ cổ thể tứ tuyệt, cùng với bút pháp cổ điển, ước lệ, Hồ Chí Minh đã vẽ nên bức tranh Chiều tối hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Có thể nói đây là một trong những bài thơ hay nhất trong các tác phẩm thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên, niềm tin yêu vào cuộc sống mà còn thể hiện một tinh thần và ý chí sắt đá trong tâm hồn nhà thơ Hồ Chí Minh.
3. Phân tích bức tranh thiên nhiên và con người trong bài Chiều tối ấn tượng nhất:
Bài thơ “Chiều tối” là một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất trong tập “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh ông đang trên đường bị chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Có thể nói, bài thơ như một bức tranh hài hòa, giao thoa giữa bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người, hay sự kết hợp giữa bức tranh hiện thực cuộc sống và tinh thần thép của người tù cộng sản Hồ Chí Minh. Sáng.
Có ai như Bác không, có tinh thần lạc quan, yêu đời hơn tinh thần của Bác không? Dù trong hoàn cảnh lao động gian khổ nhưng trên đường đi, Bác vẫn dùng tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của mình để ghi lại cảnh thiên nhiên, con người rồi gửi gắm những tình cảm, tâm sự của mình. và những cảm xúc thầm kín của cô. Mở đầu bài thơ là cảm xúc của nhà thơ trước cảnh sắc thiên nhiên núi rừng lúc chiều tà:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Khung cảnh núi rừng u tối hiện ra bao la, mơ hồ nhưng vắng vẻ, tĩnh lặng, nhà thơ đã sử dụng bút pháp thất ngôn tứ tuyệt để tạo nên vẻ đẹp của bức tranh. Bằng những hình ảnh như cánh chim, đám mây quen thuộc trong thơ cổ, tác giả gợi ra không gian cuối ngày, một ngày dần trôi vào đêm tối, thời khắc cuối cùng của mọi hoạt động bị cấm đoán. Trong không gian mơ hồ, bóng tối đang sà xuống bao trùm vạn vật, những hình ảnh này tuy nhỏ bé, mờ nhạt nhưng lại làm tăng thêm vẻ trống trải, hoang vắng của núi rừng, đồng thời khắc họa rõ nét vẻ đẹp của thiên nhiên. Nỗi cô đơn của người tử tù cách mạng đang sống một mình nơi đất khách quê người. Cánh chim đã mỏi vì không gian rộng lớn khiến nó mải mê bay lượn, trở vào rừng tìm chỗ ngủ nhấn mạnh rằng cuối ngày, cánh chim sau một ngày hoạt động, phải tìm một nơi để dừng lại và ở lại. Người chiến sĩ cách mạng dẫu mệt cũng biết khi nào dùng được chân, không biết dừng ở đâu. Hình ảnh “Chòm mây bồng bềnh nhẹ nhàng giữa các lớp không khí” gợi lên vẻ mờ ảo, thư thái nhưng có phần cô đơn, lẻ loi của người tù cách mạng lang thang. Mây nhẹ trôi giữa không gian bao la cũng gợi sự chậm chạp, khắc khoải trong giấc mơ, cũng như ông, trên đường đi công tác, ông cứ băn khoăn không biết tương lai sẽ đi về đâu, cả sự nghiệp cách mạng. Điều gì sẽ xảy ra với phía trước?
Khung cảnh núi rừng u tối hiện ra bao la, mơ hồ nhưng vắng vẻ, tĩnh lặng, nhà thơ đã sử dụng bút pháp thất ngôn tứ tuyệt để tạo nên vẻ đẹp của bức tranh. Bằng những hình ảnh như cánh chim, đám mây quen thuộc trong thơ cổ, tác giả gợi ra không gian cuối ngày, một ngày dần trôi vào đêm tối, thời khắc cuối cùng của mọi hoạt động bị cấm đoán. Trong không gian mơ hồ, bóng tối đang sà xuống bao trùm vạn vật, những hình ảnh này tuy nhỏ bé, mờ nhạt nhưng lại làm tăng thêm vẻ trống trải, hoang vắng của núi rừng, đồng thời khắc họa rõ nét vẻ đẹp của thiên nhiên. Nỗi cô đơn của người tử tù cách mạng đang sống một mình nơi đất khách quê người. Cánh chim đã mỏi vì không gian rộng lớn khiến nó mải mê bay lượn, trở vào rừng tìm chỗ ngủ nhấn mạnh rằng cuối ngày, cánh chim sau một ngày hoạt động, phải tìm một nơi để dừng lại và ở lại. Người chiến sĩ cách mạng dẫu mệt cũng biết khi nào dùng được chân, không biết dừng ở đâu. Hình ảnh “Chòm mây bồng bềnh nhẹ nhàng giữa các lớp không khí” gợi lên vẻ mờ ảo, thư thái nhưng có phần cô đơn, lẻ loi của người tù cách mạng lang thang. Mây nhẹ trôi giữa không gian bao la cũng gợi sự chậm chạp, khắc khoải trong giấc mơ, cũng như ông, trên đường đi công tác, ông cứ băn khoăn không biết tương lai sẽ đi về đâu, cả sự nghiệp cách mạng. Điều gì sẽ xảy ra với phía trước?
Bỗng trong không gian thiên nhiên hiện ra bóng dáng của con người, cuộc sống của con người đã làm sống dậy bức tranh, trở thành tâm điểm của bức tranh. Sự xuất hiện của cuộc sống con người đã xua tan nỗi cô đơn, lẻ loi của người tù cách mạng:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng)
Ở vùng quê miền núi thấp thoáng bóng một thiếu nữ đang xay ngô chuẩn bị cho bữa cơm chiều, quả thực đây là một bức ảnh – một cảnh rất đỗi bình dị, mộc mạc. Nhưng chính cuộc sống đời thường ấy lại là chất xúc cảm mãnh liệt đem đến những xúc cảm khác thường trong tâm hồn thi nhân. Ở vùng cao, khi bóng tối vắng vẻ, hình ảnh cô thôn nữ cặm cụi xây ngô, một hình ảnh đẹp của con người trong lao động. Chính sức trẻ, nhiệt huyết lao động của cô thôn nữ đã xua tan đi cái âm u, tĩnh lặng và hoang vắng của núi rừng về đêm. Những hoạt động đời thường gợi lên trong lòng tác giả cảm giác ấm áp, hạnh phúc và hụt hẫng, hơn nữa, những hoạt động của con người chính là hơi ấm của cuộc sống, không chỉ xua đi nỗi cô đơn mà còn đem lại niềm vui cho cuộc sống. niềm vui trong lòng người tù nơi xứ người. Hình ảnh “bông sen hồng” – bếp lửa hồng kết thúc bài thơ và cũng là nhan đề của bài thơ, từ đây nhìn bức tranh cuộc sống con người trở nên ấm áp hơn, màu hồng của bếp lửa nhẹ bẫng. của hy vọng, của niềm tin và của cuộc sống. Quan điểm này cũng quay trở lại khắc phục sự cố chuyển đổi thời gian và không gian từ ngày sang đêm. Màn đêm đã bao trùm lên toàn cảnh, đến mức chỉ có một con suối có thể thắp lên những đóa hồng bồng bềnh trong đêm tối của núi rừng.
Bài thơ “Chiều tối” thực sự là một bức tranh đẹp, hài hòa giữa các mảng sáng tối, thiên nhiên và con người. Người tù cộng sản Hồ Chí Minh đã dùng những nét tinh tế, trong sáng nhất của tâm hồn yêu thiên nhiên, cuộc sống để vẽ nên bức tranh thần kỳ trong hoàn cảnh đặc biệt – trên đường vượt ngục.