Phân tích, cảm nhận 2 câu cuối bài Thương vợ của Tế Xương

Thương vợ là
bài thơ hay và ấn tượng của nhà thơ Tế Xương, thể hiện tinh cảm của nhà thơ đối
với người vợ của minh. Bài viết dưới đây là tổng hợp các bài Phân tích, cảm nhận
2 câu cuối bài Thương vợ của Tế Xương. Cùng tìm hiểu nhé.

1. Lập dàn ý Phân tích hai câu thơ cuối bài Thương vợ của Trần Tế Xương:

1.1. Mở bài:

– Với cuộc đời ngắn ngủi chỉ khoảng 37 năm, nhưng Tú Xương đã để lại cho đời một sự nghiệp thi ca khá hấp dẫn với 100 tác phẩm, trong đó ấn tượng nhất là trong số những tác phẩm ông dành hẳn một mảng đề tài. viết phu nhân Cao Khang – bà Tú.

– Thương vợ là một trong những tác phẩm đặc sắc, cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú, tình cảm ấy được thể hiện chân thực, rõ nét, nhất là ở hai câu kết như lời “chửi” của bài. bài thơ “Cha mẹ lầm than/Có chồng hờ hững cũng như không”.

1.2. Thân bài:

* Tổng quan:

– Thương vợ là bài thơ tiêu biểu về đề tài trữ tình của Tú Xương, thơ cổ theo quan niệm phong kiến xưa trọng nam khinh nữ thường có những tác phẩm viết về người vợ và người phụ nữ.

– Đàn ông phong kiến thường coi sự vất vả, khổ cực của người phụ nữ trong gia đình là điều hiển nhiên.

– Tú Xương là một nhà thơ vừa có tâm vừa có tài nên cách nghĩ của ông cũng khác người, ông hiểu nỗi buồn của vợ nên bày tỏ tình cảm trân trọng, quý mến vợ một cách đầy thi vị. chân thực, giản dị, gần gũi.

– Tú Xương có một sự nghiệp thơ văn đồ sộ như vậy cũng có một phần công lao của người vợ, không lo cho chồng con, không muốn chồng tham gia lao khổ, bà luôn tin tưởng và khẳng định điều đó của mình. chồng phải đứng trên sự nghiệp viết lách xứng đáng của mình

* Hai dòng cuối bài thơ đúng là một câu “chửi”:

– Tú Xương chống lại cuộc đời, đánh đuổi xã hội phương Tây thối nát, Tàu ta loạn lạc, đạo đức con người trở nên băng hoại, mất nhân tính, kẻ tự mãn, không biết xấu hổ, được ăn mặc sung sướng. họ. Khiến cuộc đời của những con người thực sự có nhân cách và tài năng bị dồn vào ngõ cụt, khốn khổ, khiến vợ phải bươn chải kiếm sống.

– Cuộc đời của Tú Xương cũng là thử thách chính ông, ông cho rằng mình bất tài, chỉ biết ăn lương của vợ, cặp mắt điên dại nhìn vợ làm lụng vất vả kiếm từng đồng nuôi cả nhà. Đồng thời thể hiện được nỗi đau, nỗi niềm của một con người nhưng bất lực trước cuộc đời.

– Chửi đời, tự dằn vặt mình, Tú Xương cũng đả kích những ông chồng lẳng lơ, khéo làm việc, quen hưởng thụ, biết vợ khổ mà cũng làm ngơ không cảm thông, chia sẻ.

1.3. Kết bài:

– Bài thơ Thương vợ sâu sắc, cảm động thể hiện tình cảm chân thành của một người chồng dành cho vợ là bà Tú.

– Hai câu thơ cuối là những lời tâm huyết từ đáy lòng cũng như tiếng nói phản kháng của Tú Xương trước một kiếp người đen bạc, những đắng cay tủi phận của mình với chính mình, với cả những người chồng. tồi tệ, vô dụng, để vợ khổ cả đời.

2. Phân tích hai câu thơ cuối bài Thương vợ của Trần Tế Xương hay nhất:

Trần Tế Xương (1870-1907), tên tự là Tú Xương, quê ở Nam Định, là một nhà Nho tài cao đương thời nhưng không gặp may mắn trong sự nghiệp. Vì ngại học hành thi cử nên ông Tú thường lấy việc sáng tác văn chương như một thú vui để khuây khỏa những ngày tháng buồn chán. Thơ ông là sự kết hợp giữa yếu tố trữ tình, trào lộng và hiện thực sâu sắc, đôi khi người ta ví đôi mắt ông Tú và tác phẩm của ông như một cuốn nhật ký đặc biệt. những nét đặc trưng của thời đại mà xã hội Tây, Tàu, Ta loạn lạc. Với cuộc đời ngắn ngủi chỉ khoảng 37 năm, nhưng Tú Xương đã để lại một sự nghiệp thi ca khá đồ sộ với 100 tác phẩm, trong đó ấn tượng nhất là trong số tác phẩm ông dành hẳn một đề tài viết về con người. Vợ Cao Khang – bà Từ. Trong số đó bài thơ Thương vợ là một trong những tác phẩm đặc sắc và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú, tình cảm ấy được thể hiện chân thực và rõ nét nhất ở hai câu kết như ”lời nguyền” của bài thơ Cha mẹ có thói của ăn của để/ Có chồng hờ hững cũng như không”.

Thương vợ là bài thơ tiêu biểu về đề tài trữ tình của Tú Xương, thơ xưa theo quan niệm phong kiến xưa trọng nam khinh nữ thường có những tác phẩm viết về người vợ, người phụ nữ. Đàn ông thường tự nhốt mình trong lối mòn với suy nghĩ vợ phải tuân theo tứ đức, theo chồng thì chịu khó, cực khổ, nâng khăn sửa khăn cho chồng là đương nhiên, mệt và khổ. Lo lắng cũng là chuyện bình thường, không có gì đáng lo ngại, thay vào đó, điều họ lo lắng thường ở mức cao, vượt ra ngoài cuộc sống bình thường. Nhưng với Tú Xương thì khác, không phải vì ông không có việc làm, vì phải trả lương cho vợ mà ông phải làm thơ, văn xuôi chiều vợ, mà xuất phát từ lòng yêu thương, kính trọng vô hạn của một người chồng vì vợ tự mãn. Xuất phát từ ý thức lẽ sống, ý thức được nỗi niềm mong mỏi của vợ nhưng cuộc sống khốn khó không cho anh Tú chia sẻ, để rồi cả gia đình với 7 bà mẹ mang bầu ăn nên làm ra. một mình gánh trên vai bà Tú. Phải thừa nhận rằng Tú Xương có một gia tài thơ đồ sộ hơn trăm bài như thế, một phần lớn nhờ công lao của người vợ, có thể ông không may mắn trong sự nghiệp mà người đã bỏ ông. Trời sinh cho anh một người vợ ngoan hiền, đảm đang, yêu thương, hy sinh cho chồng con. Chống chọi với áp lực cơm áo đang đè nặng trên vai, nhưng bà Tú cũng không muốn chồng bỏ nghiệp viết văn nghiên cứu để lao vào cuộc đời lao động sương khói, bà vẫn muốn ông là một tú tài đủ tiêu chuẩn. một sự nghiệp văn học, không phải chịu đựng. nhiều gian khổ. Tấm lòng của người vợ, Tú Xương đã nhìn rõ, ông không vô tình ve vãn sang một bên hay giấu trong lòng giữ sĩ diện phong kiến mà để lại cho vợ tất cả tình cảm của mình. vào thơ ông, bằng lời lẽ giản dị, chân chất, đôi chỗ có chỗ phách lối, chua ngoa, nhưng thơ Tú Xương mới chính là thế, trữ tình, hiện thực và hào sảng luôn đan xen trong thơ Tú Xương cùng nhau.

Hai câu cuối bài “Thương vợ” của Tú Xương nghe y hệt một câu “chửi”.

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”

“Cha mẹ” ở đây không có ý giễu cợt cha mẹ, chỉ là Tú Xương thương vợ mà khổ, giận cho thói đời sóng gió, không cho được con đường binh nghiệp sáng sủa. ông đã dùng hết tài năng của mình, nhưng dù có thi thố bao nhiêu lần, ông vẫn không muốn ăn thịt ai, vẫn chỉ là một tiểu tú tài cuộc đời. Giá như lớp nho sĩ còn phong lưu, lớp tú tài cũng khá giả, có thể gia nhập lớp thanh niên, nhưng bạc mệnh theo ông, nhưng ông lại sinh đúng ngày Tây, Tàu hỗn láo. lên nền văn hóa mới. lịch sử lâu đời của đất nước. Xã hội phong kiến suy vong, Nho giáo suy vong, trí thức đương thời chán nản lui về quê không màng thế sự, bởi khi đó đạo đức xã hội hạ thấp đã băng hoại, biến dạng sẵn sàng từ bỏ sĩ diện và đạo đức, chà đạp lên nhau, đổi lợi, ăn mặc sung sướng. Còn người có tâm, có tài như Tú Xương lại phải chịu cảnh bạn bè đầu đường xó chợ, phải chịu lực bất tòng tâm. Cố gắng đừng oán hận, đừng buông lời chửi bới “thói ăn tiền” hay không?

Cuộc đời ấy cũng là tiếng tự lau của Tú Xương, anh gánh cho mình sự bất tài, vô dụng, không thể chia sẻ gánh nặng của vợ mà chỉ biết làm người chồng kiếm tiền của vợ, ngoác mồm nhìn vợ. chịu biết bao khó khăn. Như vậy, bà Tú đúng như Tú Xương đã nói “Có chồng thì dửng dưng cũng như không”, dưới chế độ phong kiến, đạo đức vẫn là người chồng gánh vác việc phát triển, là trụ cột của cả gia đình, còn người vợ là vẫn còn sống. Trách nhiệm bất chấp việc nhà, việc nuôi dạy con cái, việc trời sinh đàn ông, đàn bà ấy thực ra cũng đồng nghĩa với nhau. Thế nhưng ở gia đình Tú Xương thì khác, một mình bà Tú gánh vác cả hai gánh nặng ấy trên vai, bà không nỡ để chồng phải làm thuê cho bọn tay sai, cho bọn xâm lược mà ông vô cùng căm ghét. , cô cũng không yên tâm để anh nấu cơm và con cái nên ôm tất đi. Ý thức được hoàn cảnh gia đình, Tú Xương càng tủi thân, đau đớn hơn và căm ghét những gì xã hội ban tặng, có lúc mù quáng.

Nhưng phải chăng Tú Xương vừa đánh đời vừa đánh mình? Tú Xương cũng đánh những người như ông, ông đánh đuổi những kẻ bạc bẽo, lì lợm, thích hưởng thụ, coi vợ như kẻ ăn bám, phải cung phụng cho thói ăn chơi, hưởng thụ của mình. Hỡi những người chồng, những người lãng mạn, những người lãng mạn, những người lãng mạn, những người lãng mạn, những người lãng mạn, những người lãng mạn, những người lãng mạn, những kẻ lang thang, người phụ nữ bất hạnh phải chịu đựng quá nhiều cay đắng và đau khổ của cuộc đời. Thế mới đúng với câu “Có chồng hờ cũng như không”, nếu không lấy chồng đôi khi cuộc sống thật vất vả, khổ sở

Bài thơ Thương vợ sâu sắc, cảm động thể hiện tình cảm chân thành của một người chồng dành cho vợ, ngỡ ngàng vì không cho bà một cuộc sống yên ấm, sung túc nhưng chính cách ông kính trọng, yêu thương bà Tú đã khiến bà có một chỗ dựa tinh thần vững chắc. là động lực để bà Tú tiếp tục cố gắng vì gia đình khiến mọi người thực sự ngưỡng mộ. Hai câu thơ cuối là lời tâm huyết từ đáy lòng, cũng là tiếng nói phản kháng của Tú Xương trước cuộc đời đen bạc, nỗi tủi hờn đắng cay với chính mình, với những người chồng của mình. ăn hại, vô dụng, để vợ khổ cả đời.

3. Phân tích hai câu thơ cuối bài Thương vợ của Trần Tế Xương ý nghĩa nhất:

Trần Tế Xương (bút danh Tú Xương) là một nhà văn trào phúng nổi tiếng, có lẽ là nhà văn trào phúng xuất sắc nhất trong nền văn học của nhà nước. Thơ tự nhiên, châm cứu của Tú Xương được nhiều người yêu thích bởi chất trữ tình (trong tiếng cười có cả nước mắt). Còn “Thương vợ” tiêu biểu cho dòng trữ tình của Tú Xương.

Tình cảm vợ chồng từ bao đời nay luôn được mọi người trân trọng và là một trong những tình cảm cao quý nhất của con người. Trong xã hội cũ, có nhà thơ Tú Xương đã có những cảm xúc và câu thơ ý nghĩa khi viết về vợ qua bài thơ Thương vợ. Qua bốn câu thơ cuối, nhà thơ đã khắc họa thành công hình ảnh người vợ lam lũ. Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ là tiếng mưa đắng cay mà Tú Xương thay mặt vợ cất lên:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.

Câu kết là lời nguyền rủa thói sống bạc tình. Tự trách mình phải bắt. Đối với anh Tú, việc nổi tiếng nhờ đua đòi như vậy là điều rất tự nhiên. Thử thách đầu tiên là sự cảm thông, thấu hiểu với những khó khăn, vất vả mà vợ anh phải trải qua. Bên cạnh đó, sự rượt đuổi còn là sự tự trách mình của ông Tú, rằng sự nghiệp còn dang dở, chưa lo được cho vợ một cuộc sống hạnh phúc. Bản án cuối cùng là một bản án rất đau đớn nhưng cũng rất công bằng, ông Tú tự kiểm điểm mình là một con bạc, nhưng thực ra sới bạc đó chỉ là hớt váng. Căm phẫn việc nhà, uất ức bao vất vả, uất ức vì thái độ cam chịu của vợ. Sự thờ ơ đó anh đã bay theo chiều gió, anh thực sự rất yêu vợ, quan tâm và thông cảm cho vợ, chỉ có điều mới cảm nhận được sự sợ hãi đó.

Bài thơ khép lại để trong lòng người đọc trào dâng những cung bậc cảm xúc khác nhau. Đã nhiều năm trôi qua nhưng bài thơ nói chung, đoạn thơ nói riêng vẫn giữ nguyên những giá trị tình cảm cao đẹp vốn có; đồng thời góp phần quan trọng vào kho tàng văn học Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trênDuong Gia FacebookDuong Gia FacebookDuong Gia TiktokDuong Gia TiktokDuong Gia YoutubeDuong Gia YoutubeDuong Gia GoogleDuong Gia Google
5/5(1
bình chọn
)

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com