Bài viết dưới đây là tuyển tập những bài văn hay phân tích tác phẩm Hoàng Lê Thống Chí Nhất của nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái. Hi vọng các bạn sẽ có thêm tài liệu hữu ích cho việc học văn. Cùng tham khảo nhé!
1. Dàn ý Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí chọn lọc siêu hay:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu ngắn gọn những nét tiêu biểu thể hiện rõ nhất về nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái: Đây là nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì.
– Giới thiệu tiểu thuyết Hoàng Lê Nhất Chi và đoạn trích: Đây là tiểu thuyết khắc họa chân thực, đầy đủ những chuyển biến xã hội trong một giai đoạn lịch sử của đất nước. đến những nét chạm khắc độc đáo của vua Quang Trung và cuộc đại bại tướng nhà Thanh và số phận bi thảm của vua tôi Lê Chiêu Thống.
1.2.Thân bài:
a.Hình ảnh người anh hùng áo vải Quang Trung:
* Người hành động mạnh mẽ, dứt khoát
– Nghe tin giặc chiếm Thăng Long không nao núng, thân chinh cầm quân đi ngay
– Trong vòng hơn một tháng, ông đã làm được rất nhiều việc lớn: “hiến tế trời đất”, lên phủ đệ và đích thân dẫn quân ra Bắc.
* Người có đầu óc trí tuệ, nhạy bén
– Đầu óc minh mẫn, nhạy bén trong đánh giá tình hình chiến đấu và
+ Quang Trung đã chỉ rõ âm mưu và tội ác của giặc xâm lược nước ta: “Cướp nước ta, giết dân ta, vơ vét của cải”…
+ Khích lệ tinh thần các chiến sĩ bên dưới bằng những tấm gương dũng cảm
+ Dự kiến một số người quan trọng của Phù Lễ có thể đổi ý, nên có một đội quân vừa trung thành vừa khắc phục.
– Trí tuệ sáng suốt và sắc bén trong những quan sát bên ngoài của tôi:
+ Trong cuộc hội quân ở Tam Điệp, ta thấy Quang Trung đã sáng suốt nhìn thấu tình thế để khen ngợi Chu và Lân.
+ Đối với Ngô Thì Nhậm đề cao sự “đa đoan”
⇒ Dùng người khôn ngoan
* Một người có tầm nhìn xa và mưu kế vượt xa con người
– Tầm nhìn xa:
+ Mới ra quân nhưng đã khẳng định “đã tính toán sách lược tấn công”
+ Ngồi trên lưng ngựa, ông nói với Nhậm về chính sách đối ngoại và kế hoạch 10 năm tới để có hòa bình
– Một chiến thuật hơn người có thể thực hiện trong một cuộc hành quân thần tốc mà đội quân vẫn theo thứ tự
b. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh:
– Hình ảnh Tôn Sĩ Nghị ngạo mạn, tự do, chủ quan kéo quân vào Thăng Long không chút đề phòng Tướng bất tài
– Khi quân Tây Sơn tiến đánh, “tướng sợ mất mật”, ngựa không kịp đóng yên, người không mặc giáp… trốn trước qua cầu phao.
– Khi quân xâm lược lâm trận, chúng sợ hãi, xin đầu hàng hoặc hỗn loạn bỏ chạy, giẫm đạp lên nhau mà chết….
⇒ Miêu tả cụ thể, sinh động, viết khách quan
c. Số phận éo le của vua tôi Lê Chiêu Thống phản nước hại dân:
– Khi có hoạn nạn, Lê Chiêu Thống toát mồ hôi “chạy bán sống bán chết”, cướp thuyền của dân qua sông, mấy ngày ròng không ăn, may có người thương tình cho ăn và chỉ đường thoát thân.
– Lật ngược Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ biết nhìn nhau than thở, giận mà rơi nước mắt
– Sang Tàu, vua phải cạo đầu, tết tóc, ăn mặc như người Mãn Thanh, cuối cùng gửi gắm xương tàn nơi đất khách quê người.
⇒ Số phận tất yếu cho người đứng đầu đất nước nhưng lại bán nước hại dân
1.3. Kết bài:
– Tóm lại những nét nghệ thuật đặc sắc tạo nên thành công về nội dung của tiểu thuyết: Cách kể chuyện chân thực, sinh động, khắc họa nhân vật rõ nét…
– Liên hệ trình bày suy nghĩ của em về tượng đài Nguyễn Huệ, chân dung kẻ thù và vua Lê Chiêu Thống, từ đó rút ra bài học nhận thức và hành động
2. Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí chọn lọc siêu hay:
Hoàng Lê nhất thống chí của bộ trường ca Ngô gia văn, có thể nói cảm hứng yêu nước, lòng tự hào dân tộc có lúc đã lấn át cả thái độ thiên vị đối với nhà Lê. Điều đó đã mang đến những trang viết thật hay và thật.
Với câu nói “nhà văn là người thư ký trung thành của thời đại”, có lẽ tác giả đã nghĩ đến những trang viết sống động, chân thực, phản ánh trung thực bản chất của thời đại mà nhà văn đó đang sống. Điều này khiến độc giả Việt Nam nhớ đến một tác phẩm “thực và đẹp” như thế: “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” của Ngô Gia Văn Phái. Có ý kiến cho rằng: trong “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” của Ngô Gia Văn Phái, có thể nói tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc đã có lúc lấn át cả thái độ thiên vị nhà Lê. Điều đó đã mang đến những trang viết chân thực và hay.” Chỉ đến phần thứ mười bốn của tác phẩm, chúng ta mới biết điều này đã được khẳng định.
“Hoàng Lê Nhất Thống Chí” phản ánh giai đoạn lịch sử cuối thế kỷ 18 của nước ta. Bấy giờ, dưới triều vua Lê, chúa Trịnh đang suy đồi, thối nát, các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổi lên, tiêu biểu là phong trào nông dân Tây Sơn của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Ngô gia văn phái là một tập thể tác giả bao gồm các anh em họ Ngô Thì như Ngô Thì Chỉ, Ngô Thì Du… Họ đều làm quan hai triều Lê, Trịnh.
Hồi thứ mười bốn của tác phẩm tái hiện chiến thắng oanh liệt của Quang Trung – Nguyễn Huệ trong mùa Xuân Đinh Dậu và sự thất bại của bè lũ Lê Chiêu Thống và quân Thanh xâm lược. Như thường lệ, về phía triều đình, phái Ngô Gia Văn phải coi lực lượng của Quang Trung là “giặc cỏ”. Nhưng ngoài những quan điểm chính trị thông thường, có lẽ bộ sách do tác giả họ Ngô viết đã có những diễn tiến về sự kiện lịch sử này.
Họ nhìn cuộc nổi dậy dưới ánh sáng khách quan của phong trào lịch sử. Đến đây, hình ảnh vua Quang Trung hiện lên với vẻ đẹp phi thường của một vị tướng. Còn Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị thì ngu và đáng thương quá. Chính sự chân thực của lịch sử và sự sinh động của các cây bút họ Ngô đã tạo nên những trang viết “hiện thực và đẹp đẽ” đến thế.
Trong đoạn trích, hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang Trung hiện lên vô cùng cao đẹp, phi thường. Đó là người có hành động mạnh mẽ, dứt khoát và có đầu óc sáng suốt, sâu sắc, nhạy bén. Nghe tin có giặc ở Thăng Long, ông không nao núng mà quyết định một mình thân chinh cầm quân. Trong vòng một tháng từ 24 tháng 11 đến 30 tháng Chạp ông đã liên tiếp làm nhiều việc.
Việc ông tế trời, lên ngôi hoàng đế thu phục lòng dân đồng nghĩa với việc Bắc tiến. Tiếp đó, nhà vua cử đại quân ra Bắc, trên đường đi Quang Trung đã gặp gỡ các quan ở châu La Sơn và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An để chiêu dụ các tướng lĩnh, bày mưu tính kế. đội quân chiến đấu. Những công việc đó cực kỳ nhanh chóng và thông minh. Nó cho phép nhà vua chiêu mộ nhân tài và tướng lĩnh dồi dào và tinh nhuệ. Lời kêu gọi quân sự của anh ấy rất sâu sắc và thấm thía:
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho chúng chích luân bất phản
Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ…”
Những lời đó khẳng định chủ quyền quốc gia của ta và sự xâm lược ngang ngược, bất chính của kẻ thù, đồng thời bộc lộ dã tâm của kẻ thù. Đồng thời, nêu cao truyền thống chống ngoại xâm, kêu gọi tòng quân, ra kỷ luật của dân tộc ta. Câu chữ hàm chứa như một lời tổng kết, giàu ý nghĩa sâu sắc, có tác dụng kích thích tinh thần yêu nước và truyền thống tiết chế cường đại. Ngay sau đó, ông họp bàn với các tướng để bày mưu đối phó với quân Thanh. Ông tỏ ra khôn ngoan trong việc đánh giá và sử dụng người dùng.
Bên cạnh đó, Quang Trung – Nguyễn Huệ còn là những người có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa. Mới xuất binh nhưng ông đã khẳng định “Mưu lược đã tính… mười ngày sẽ đuổi được quân Thanh”. Sau đó, ông ta còn hoạch định một kế sách ngoại giao chiến tranh cho một nước “lớn hơn ta gấp mười lần” để ta thu quân về để yên thân và nuôi dưỡng lực lượng. Điều này ở Nguyễn Huệ đã khẳng định một điều rằng ông thực sự có tài cầm quân, một nhà chiến lược tài ba. Trong các cuộc chiến tranh phong kiến ở Việt Nam, hiếm có vị tướng nào tính thần và đi xa đến thế.
Bước vào cuộc chiến, nhà vua thể hiện tài năng như một vị thần. Nhà vua chủ trì một cuộc hành quân thần tốc. Ngày 25/5 Khởi hành tại Huế. Ngày 29 đi Nghệ An (350km xuyên núi). Quân tuyến tổ chức xuất quân, diễu binh trong 1 ngày. Ngày hôm sau: đi Tam Điệp (150km). Đêm 30 tháng chạp lên đường về Thăng Long. Và điều đặc biệt là tất cả đều đi bộ! Từ Tam Điệp trở ra (150km) vừa hành quân vừa đánh địch.
Mùng 5 Tết nhằm tháng Long (trước đó Quang Trung đã định liệu là ngày mồng 7, coi như trước hai ngày!). Dù hành quân liên tục nhưng bộ đội vẫn chính xác. Điều này khẳng định tài cầm quân của một vị tướng như vua Quang Trung.
Trong trận chiến với quân Thanh, hình ảnh nhà vua hiện lên vô cùng uy nghiêm, hiên ngang. Ông đích thân cầm quân, làm tổng tư lệnh thực chiến, lập kế hoạch và chiến lược tấn công, tổ chức quân đội từ dã chiến, phó tướng, xông pha trời giáng.
Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tướng mặc áo vải, quân Tây Sơn đã chiến đấu oanh liệt: Bắt bọn do thám ở Phú Xuyên để giữ bí mật, tạo bất ngờ; vây làng Hà Hồi, quân lính vây bắt quạ bỏ chạy, làm cho quân lính trong đồn sợ hãi, đều xin đầu hàng; đánh đồn Ngọc Hồi lấy ván còn ướt tránh tên lửa địch v.v… Hào khí của đội quân này đã làm quân giặc tan xương nát thịt.
Trong việc khắc họa hình ảnh chân dung vua Quang Trung – Nguyễn Huệ, các tác giả đã thể hiện sự tôn trọng sự thật lịch sử và ý thức dân tộc. Dù có cảm tình với nhà Lê họ không thể bỏ qua sự thực là vua Lê đã hèn yếu ” cõng rắn cắn gà nhà”. Chiến công lừng lẫy của Quang Trung là niềm tự hào lớn lao của cả dân tộc. Bên cạnh đó, các nhà văn cũng đã khắc họa thật sinh động hình ảnh bè lũ bán nước và cướp nước
Bọn Tôn Sĩ Nghị, sầm Nghi Đống không đề phòng, chỉ lo yến tiệc vui chơi. Chúng ngạo mạn gọi quân Tây Sơn là lũ “giặc cỏ”. Nhưng khi đội quân “giặc cỏ” ấy đến thì chỉ biết tháo chạy và nhận lấy những cái chết thê thảm. Tôn Sĩ Nghị thì cắt râu bỏ trốn, Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử. Bọn quân lính thì chen lấn, xô đẩy, dẫm lên nhau mà chạy về nước. Bọn vua tôi phản dân hại nước Lê Chiêu Thống cùng chịu chung số phận. Thê thảm nhục nhã nhất là vua Lê phải lê thân sang đất Bắc để rồi chịu cái chết băng giá nơi đất khách quê người.
Đây là đoạn văn miêu tả chân thực tình cảnh khốn khổ của vua Lê Chiêu Thống. Tác giả văn gửi gắm ở đó một chút cảm xúc riêng của người bề tôi cũ của nhà Lê. Điều này được thể hiện qua những giọt nước mắt và thái độ săn sóc của người Thổ hào với giọng văn ngậm ngùi.
Hồi thứ mười bốn của “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái cùng toàn bộ tác phẩm thực sự là những áng văn – sử chân thực, sinh động. Tập thể nhà văn chẳng những thể hiện thành công vai trò “thư ký của thời đại” của mình mà còn để lại trong lịch sử văn học dân tộc một dấu ấn đậm nét của tài năng và tâm đức.
3. Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí chọn lọc siêu hay ý nghĩa nhất:
Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước biết bao công trình.
Hai câu thơ trích trong Ai tư vãn của công chúa Ngọc Hân khóc chồng không phải cái nhìn của tác giả Hoàng Lê nhất thống chí. Đoạn trích này thuộc hồi thứ mười bốn, tái hiện hình ảnh Nguyễn Huệ nhưng với một góc nhìn khác, thiện cảm khác, đồng cảm với nhà Lê.
Hình tượng nhân vật này thuộc một vùng không gian nghệ thuật, một vùng ý thức tư tưởng đối lập. Tính chất phi phàm của Nguyễn Huệ không phải ở ý thương tiếc mà trong từng chữ, từng dòng miêu tả, chân dung người anh hùng áo vải đã hiện ra từ sừng sững. Khi tượng đài được hoàn thành, bản thân người viết cũng không khỏi ngỡ ngàng, điều hiếm thấy trong nền văn học nước nhà.
Màn thứ mười bốn mở đầu bằng việc làm hèn hạ của Lê Chiêu Thống “Nhặt nhầm con gà”. Tôn Sĩ Nghị cùng 2 vạn quân Thanh kéo sang thực hiện mưu vua Lê trái với quy luật lịch sử là phản dân hại nước, với hai mục đích khác nhau, trên danh nghĩa là giúp nước. nhỏ, có đường riêng là nước lớn. Trên thực tế, có một cái gì đó rất khó hiểu về họ.
“Cứ xem lời lẽ trong bài hịch, thứ chúng bắt mình gánh rất nặng, trong khi nặng, chúng chỉ quanh quẩn bên sông, lấy uy mà cướp của”. Vì sao Tôn Sĩ Nghị không ra tay? Thái độ “án binh bất động” này chẳng giống chút nào sự khẩn trương gấp gáp khi kéo quân vào. Từ cửa ải vào Thăng Long, đại quân của Tổng đốc Tôn từng hăng hái tiến công thần tốc ngày đêm, xuyên qua thành rừng và trên núi. Nay đến kinh thành, địch nhân còn chưa tới, trách cản bọn họ sao?
Sự bất lương trong sự nghiệp của Tôn Sĩ Nghị đã được cung nhân đó dự đoán: “Họ giả vờ chỉ là khách, chuyến đi này cũng là để xem sự việc khó hay dễ để đoán xem có nên lui tới hay không”. . Đối thủ của Nguyễn Huệ chắc chắn không phải bọn bán nước mà là bọn cướp nước. Kẻ bán nước hèn nhát nhưng bất lực. Còn bọn cướp nước, không những tướng mạnh mà tham vọng của chúng cũng không thể xem thường. Trong chiến tranh, phần thắng luôn thuộc về kẻ mạnh.
Vì vậy, sức mạnh của Nguyễn Huệ, người lãnh đạo quân đội, được xem xét từ nhiều phía. Chỉ cần nhìn vào lão cung nhân ở phủ Trường Yên cũng rõ: “Nguyễn Huệ là bậc anh hùng dũng cảm, tài ba, đó là điều dễ hiểu”. Quan điểm đó chắc chắn không sai.. Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm Hanh, truy sát vua bị Nguyễn Huệ trừng trị.
Nhưng trừng phạt theo kiểu “bắt Hữu Chỉnh như bắt con, giết Văn Nhậm như giết lợn” thì ta chưa từng thấy nhân vật kiệt xuất nào trong lịch sử nước ta. Về mặt hiệu quả, tính tức thời của hành động giống như một cái chớp mắt, một cái trở bàn tay. Uy thế của Nguyễn Huệ như hổ chầu trời, đến nỗi “Không ai nhìn thẳng vào mặt”. Bức chân dung thực sự huyền thoại, một sao băng, nhưng không hề biệt lập.
Có nguồn gốc, có chiều sâu. Nguyễn Huệ đã từng làm theo lời cha ông trước hiểm hoạ xâm lăng: “không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo”. Nguyễn Huệ đã đứng lên trong hoàn cảnh đó, thái độ và ý chí của Nguyễn Huệ chính là lập trường và lập trường của các bậc tiền nhân. Lá cờ đạo đức đã dẫn lối cho bước tiến thần tốc, và tấm lòng và lời nói của trăm gia đình đang mở rộng con đường.
Sự hiểu biết và sự lắng nghe trung thực và siêng năng của Nguyễn Huệ đủ để tạm thời điều chỉnh cơn bão. Nhận được tin Nguyễn Văn Thuyết bỏ đồn Tam Điệp chạy về Phú Xuân, Bắc Bình Vương giận dữ quyết định lập tức xuất quân. Để ý đến những lời khuyên có thể làm nản lòng các tướng lĩnh của mình, ông đã chấp nhận “sự tôn trọng của người dân” như một nghi thức lên ngôi. Khi đến Tam Điệp, Chử và Lân mang nỗi khổ đi xin chịu tội vì mình đã phạm tội. Tướng quân (cũng là tân vương) không hiểu nên xử lý tội lớn nhất trong quân như thế nào.
Thực ra “quân thua chém tướng”, đó là quy luật. Nhưng không có luật chống lại loài người. Long Sở Lân không như vậy, hơn nữa lại là lược của Ngô Thì Nhậm. Xếp hàng bị trừng phạt, nhưng cuối cùng được khen thưởng. Cách hiểu người, người dùng đến mức tâm sự, cách tri kỷ không phải quân nhân nào cũng giống nhau. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Huệ trong việc tập hợp, tổ chức lực lượng đã làm được điều mà Lê Lợi trước đây đã làm “Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới” (Bình Ngô Đại Cáo).
Tướng của Nguyễn Huệ là Hàm Hộ Hầu đi chiêu binh ở Nghệ An theo tục lệ cứ tam đinh (ba đinh) lấy một vợ. Nhưng chẳng mấy chốc đã “hơn một vạn quân tinh nhuệ”. Niềm tin của vua Quang Trung dựa vào lòng dân. Không biết khi gặp Chu, Lân ở Tam Điệp, ông nói với mọi người hay tự mình nói: “Lần này ta tiến quân, đích thân dẫn quân, kế đánh đã bày sẵn.
Chỉ mất mười ngày để đánh đuổi quân Thanh.” Có tâm, có tầm, người làm chiến lược phải có công, nhưng linh hồn của công quyền là dũng khí. Ông đến mộ Nguyễn Huệ ở Phú Xuân với mục tiêu “Giặc nhất định bị bắt sống lần cuối, không một ai sẽ bị bắt” và khoe rằng “người Nam Hà sẽ đến xem”.
Còn với Nguyễn Huệ, trước một cuộc chiến tưởng chừng không cân sức (quân địch đông gấp đôi) nhưng ông đã hẹn các tướng “mồng 7 vào kinh thành Thăng Long vui chơi”. Điều đó có thể làm rõ quyết tâm đánh thắng quân xâm lược của Nguyễn Huệ. Quả thật, theo dõi cuộc hành quân của Nguyễn Huệ từ Tam Điệp trở vào, người đọc sẽ hiểu thế nào là hành quân thần tốc, quân của Nguyễn Huệ được chia làm 5 đạo, gồm thủy binh nhưng bộ binh là chính.
Phương tiện hành quân lừa đảo thì khỏi nói, chỉ kể một số voi, trong đó có voi vua Quang Trung. Vì vậy, đại quân chủ yếu là đi bộ, không chỉ từ Tam Điệp mà trước đó từ Nghệ An, khi nhà vua hạ lệnh tiến quân “Quân chỉnh, chế đi”. Do đó “đi” đây là đi bộ. Họ vừa đi vừa đánh. Tuy nhiên, đêm 30 tháng Chạp (1788) vẫn ở Tam Điệp, ngày mồng 3 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789) họ tiến về Hà Hồi, vượt qua hai con sông. Gián Khẩu, Thanh Quyết. Họ đã hành quân hơn một phần trăm km chỉ trong ba ngày.
Giữ vững tốc độ, sáng ngày mồng 5, nghĩa quân tiến đến đồn Ngọc Hồi, vượt qua sự kháng cự không đáng kể của đồn này dưới sự chỉ huy của Thái tử Diễn Châu Sầm Nghi Đống. Sau đó đại quân tiến ra Thăng Long. Cái có thật mà không có thật, đúng như lời sấm của vua Quang Trung: “Hãy ghi nhớ lời dặn, chớ tưởng ta nói láo!”.
Dường như trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam có hai câu nói giống nhau khi đánh giá thành bại hơn thua. Đó là câu trả lời của vua Trần với Trần Hưng Đạo “trận đánh năm nay nhàn nhã” và lời nói trên của Nguyễn Huệ. Cùng với lối hành quân thần tốc có một không hai trong lịch sử chiến tranh, lối đánh của vua Quang Trung biến hóa thần thánh, không lối chơi nào có được. Đó là cách đánh túi, phân chia chức năng, tạo yếu tố bất ngờ. Đối tượng rơi vào một vị trí đã định mà không quay lại. Vì sao khi đến sông Thanh Quyết, quân Thanh do thám bỏ chạy, Quang Trung đuổi theo?
Trên thực tế, con số của anh ta không đáng kể. Điều quan trọng đối với Quang Trung là trong những trận đánh lớn tiếp theo, Tôn Sĩ Nghị không thể chủ động đề phòng. Bảo đảm yếu tố bất ngờ tức là nắm chắc một nửa phần thắng. Việc làm ở đồn Hà Hồi như vậy, mãi đến khi Quang Trung bắc loa gọi, đóng ở đồn thì mới biết. Vì bị động, bị bất ngờ “ai thua sợ hãi, lập tức xin đầu hàng, lương thực khí giới đều do quân Nam lấy hết”. Xét cho cùng, thắng hay bại trong chiến tranh phụ thuộc vào hai yếu tố: thể lực và binh lực.
“Lực” liên quan đến “khả năng” và “khả năng” quân Tây Sơn có thể tạo ra “lực lượng”. Quang Trung tận dụng và phát huy hai nhân tố trọng tâm then chốt. Bất ngờ là một khía cạnh của điều đó. Ở đây có sự bất ngờ về thời gian và địa điểm của cuộc tấn công. Ngoài ra còn có sự bất ngờ trong cách đánh. Đối phương dù biết lúc nào nên tấn công – nhưng không biết cách tấn công đối phương thì cũng khó phòng bị. Vì vậy, đồn Hà Hồi đã giành thắng lợi một cách nhanh chóng và dễ dàng. Không cần bắn tôn mà địch tự trói mình. Nó cũng phụ thuộc vào khả năng. Cần phải đạt tới trình độ kỹ thuật để vừa khải hoàn vinh quang, vừa đảm bảo toàn lực.
Nhưng cách đánh ở Ngọc Hồi, cửa ngõ của kinh thành Thăng Long, cách đánh ở Hà Hồi không thể áp dụng được nữa. Để đảo ngược đối thủ ngay từ những phút đầu tiên, phải có một phương pháp khác để hóa giải các cuộc phản công của nhà vô địch. Quang Trung đã sử dụng ván lật, tức là mộc đơn giản mà sáng tạo, tạo thành một tấm lá chắn để quân vẫn có thể với đội hình “tinh nhuệ” nhất.
Kỳ diệu thay, nó làm cho những mũi tên của kẻ thù bắn ra “trúng ai”. Giặc phải dùng ống khói thổi khói làm quân Nam hoang mang, rồi loạn gió đổi hướng, quân Thanh hại mình, quái dị không chống cự nổi. Nức lòng trước tướng giỏi, quân đông, thừa chí lược mà phải thắt cổ tự sát, Sầm Nghiêu thắt cổ chết như một lẽ đương nhiên.
Điều mà Nguyễn Trãi đã tổng kết trong Bình Ngô đại cáo “Đánh một trận sạch chẳng lạ – Đánh hai trận phá chim” đã được Quang Trung ở thời ông kế thừa. Để đạt được sự triệt để, tuyệt đối, vừa tiêu diệt toàn bộ sinh lực địch, vừa bẻ gãy hoàn toàn ý chí của chúng, nhất là ở những địa bàn quan trọng như đồn Ngọc Hồi, Quang Trung đã phối hợp tiến công địch. phía trước có hai cánh như hai gọng kìm. Lực lượng thừa thắng xông lên không nhỏ như ở Hà Hồi, nhưng cảm thấy bơ vơ giữa một “vòng trời đất” bao vây. Đội quân tham chiến đã bị đánh bại, và đội quân rút lui thậm chí còn hỗn loạn hơn.
Chạy về phía đê Yên Duyên, thấy quân Quang Trung đánh trống mở cờ, rẽ vào đường Vĩnh Kiều bỏ chạy, quân voi của Quang Trung kéo từ Đại Áng ra cản. Còn cái chết nào có thể nhục nhã hơn đối với họ, những người đang trong tình thế tuyệt vọng, hỗn loạn phải ẩn náu ở Mục Đàm tốt để “quân Tây Sơn càn quét giày xéo, giết hàng vạn người”.
Giữ vững thế và lực đó, đại quân Tây Sơn kéo thẳng vào kinh thành Thăng Long. Điều thú vị là các trận đánh của Quang Trung có quy mô lớn hơn khi cơn lốc xoáy tăng cường độ, xuyên qua tất cả các cửa ngoài và tiến vào đại bản doanh mà không gặp trở ngại nào đáng kể.
Đối tượng phản kháng, dù là Sầm Nghi Đống hay Tôn Sĩ Nghị, dù là Hà Hồi, Ngọc Hồi, hay cả Thăng Long, quân xâm lược đều chung một hoàn cảnh: sợ hãi, vướng víu, bất lực. Sầm Nghi Đống tự tử, Tôn Sĩ Nghị một khi “sợ mất mật” không thể quay đầu lại. Thế là “ngựa không nghỉ, người không thôi giáp” hướng về phương Bắc mà chạy.
Chi tiết này đúng là tuy chỉ là một chi tiết nhỏ nhưng ý nghĩa của nó rất lớn. Mới mấy ngày trước, hai mươi vạn quân Thanh từ phương Bắc tiến vào định làm cỏ nước Nam, bọn hợm hĩnh đã thế, nay một miếng cũng không còn, huống chi bọn bán nước cầu vinh Lê Chiêu Thống. Tính cách đáng thương, đáng khinh của y được miêu tả trong nhiều trường hợp, như lần vua Lê tiễn Tôn Sĩ Nghị ở biên giới phía Bắc với ánh mắt vừa thảm hại vừa buồn cười. Như vậy là bức phác họa nhân vật Quang Trung vừa được hoàn thành những nét vẽ cuối cùng.
Tượng đài độc nhất vô nhị trong lịch sử văn học nước nhà cứ hiện ra dưới bầu trời thủ đô trong vắt không khói bụi. Trong khúc khải hoàn của người chiến thắng, vua Quang Trung là biểu tượng đầy ý nghĩa cho những gì thuộc về dân tộc. Đó là đạo đức Việt Nam, trí tuệ Việt Nam, sức mạnh Việt Nam. Phải chăng những chủ thể ít được sống lại trong Giấc mộng của Nguyễn Du khi biến người anh hùng ngông cuồng trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thành người anh hùng tái thế – Từ Hải trong Truyện Kiều?
Trở lại với quan điểm của tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí, quan điểm chung là quan điểm khách quan. Hình tượng nhân vật Quang Trung làm được điều này như có ánh sáng soi vào. Tuy nhiên, bên cạnh đó là những yếu tố duy tâm nằm ngoài nhận thức của quy luật lịch sử và nhân sinh. Không giới hạn như nhiều lần khi tường thuật sự việc hay tâm tư nhân vật, nhà văn nói về trời. Trời là trời đất, là mệnh trời mà con người không làm được. Trong cuộc chiến ở Ngọc Hồi, bậc thầy sử dụng hỏa hổ chính là quân Thanh.
Cuộc phản công này không phải là không có tác dụng vì kẻ chủ mưu là một loại vỏ bọc bảo tàng. Nhưng bỗng nhiên trong chòi nổi gió. Đó là biểu hiện của trời. Rồi khi Quang Trung kéo quân vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị cũng không biết. “Nào, cuộc vui chưa tàn, trời đã đổi”. Đã là “thiên lý” thì người hợp thì đại nghĩa, ngược lại Tôn Sĩ Nghị, Lê Chiêu Thống thì thất bại là đương nhiên.
Chính Lê Chiêu Thống đã thú nhận sự bất lực của mình trước cơ hội trời cho này khi nói với Tôn Sĩ Nghị lúc chia tay rằng: “Ngươi không có tài, nếu giữ được phép tắc. Xin tướng quân tuân lệnh”. . Hoàng thượng ra tay cứu giúp, không ngờ lòng trời không phụ nước nhỏ, nay lại bỏ rơi mà đi, mong tướng quân về triều hai chữ “vạn phúc”. trong yếu tố duy tâm này chắc chắn không chỉ Nó mang hàm ý tiêu cực Cái tích cực lên ngôi thay già, nắng thay mưa Về khách quan, nó hợp lòng người.
Sự tiến bộ vượt bậc ở đây chính là ở chỗ, ở đó cuộc sống đã trả lại cho tác phẩm văn học những chân lý nghệ thuật mới vượt ra ngoài định kiến, áp đặt của bất kỳ ai.