Phân tích giá trị nghệ thuật trong tình huống truyện Vợ nhặt

Bài viết dưới đây giúp các em hiểu được bút pháp xây dựng nhân cách độc đáo của nhà văn Kim Lân. Thông qua tình huống cốt truyện đó, tác giả muốn tố cáo bọn thực dân giả tạo đã gây ra nạn đói năm 1945 cho nước ta. Các bạn cùng tham khảo nhé!

1. Dàn ý bài phân tích giá trị nghệ thuật trong tình huống truyện Vợ nhặt ngắn gọn nhất:

1.1. Giới thiệu:

– Truyện ngắn Vợ nhặt là một tác phẩm thành công của Kim Lân và của văn xuôi sau kháng chiến chống Pháp. Thành công của truyện thể hiện ở chỗ: để phản ánh số phận bi đát của người nông dân trong nạn đói năm 1945 và khát vọng sống mãnh liệt với những phẩm chất tốt đẹp, Kim Lân đã chọn con người là người cai nghiện. Độc đáo: tình yêu bù đắp cho vợ.

– Câu chuyện người vợ hờ của ông Tràng dưới ngòi bút miêu tả của Kim Lân đã làm sáng lên vẻ đẹp nhân văn của những người dân đói, đồng thời làm cho ý đồ tư duy tưởng tượng của nhà văn được thể hiện trọn vẹn. . Thành công đó là nhờ tài năng nghệ thuật của Kim Lân trong sự phát triển của sự kiện.

1.2. Phân tích:

a. Mục đích của Kim Lân khi viết Vợ Nhặt. Viết về cái đói, nhưng dụng ý của nhà văn không phải là phản ánh bi kịch của cái đói, cái khát và tất cả sự lầm lì bất lực của con người đã gây ra cái đói. Với Kim Lân, “Cái đói vừa chua xót, vừa xót xa, đồng thời cũng làm lóe lên một tia đạo đức, danh dự (nhà văn nói về tác phẩm). Truyện Vợ Nhặt khám phá những khía cạnh cuối cùng của tấn bi kịch ấy.

b. Trạng thái chọn lọc: Khi nạn đói hoành hành, cái đói và cái chết đang bao trùm, bủa vây cuộc sống của con người, họ phải lo kiếm cái ăn để bảo toàn mạng sống thì Tràng – một thanh niên nghèo của xóm – quay sang nhìn một người vợ. Tràng đã có vợ và có gia đình riêng vào đúng lúc khát khao hạnh phúc không nên có vì nó khó tồn tại. Thật vậy, vấn đề vợ của Tràng là một vấn đề tâm lý – nó có ý nghĩa như một phép thử để đo lường phẩm chất con người ở con người. Chọn tình huống này, hẳn Kim Lân phải rất táo bạo và phải có đủ sự tinh tế cũng như khả năng nhìn thấu thế sự thì mới có thể lý giải, triển khai và xử lý theo đúng ý đồ, kế hoạch ban đầu.

c. Những đặc sắc nghệ thuật của Kim Lân khi triển khai tình huống:

*  Đặc biệt chú ý khai thác các quan hệ trong bức tranh đời sống:

– Sự đối lập giữa cảnh đói khát, ám ảnh cái chết và khát vọng sống, hạnh phúc của con người:

+ Nhà văn miêu tả khá kĩ cảnh xảy ra nạn đói, nhất là không gian năm đói với các phương diện âm thanh, mùi vị, hình ảnh, không khí tạo cảm giác lạnh lẽo, đau đớn ghê gớm, trước cái chết. đang ngự trị. chi phối mọi mặt của đời sống. Trên nền đó, sự tồn tại của con người trở nên vô cùng rùng rợn: có người chết đói, có người sống nhưng vật vờ như ma. Lúc này sự sống trở nên yếu ớt khi bị cái chết rượt đuổi. Người ta dễ tin rằng nếu đúng như vậy, sự sống sẽ ngủ yên trong một không gian đặc biệt sặc mùi chết chóc. Trong không khí đó, cần phải có một sự kiện thật lạ, thật độc đáo để làm phiêu lưu và đảo ngược xu thế đang chìm xuống: đó là sự kiện anh Tràng nhặt được vợ. Kim Lân đã cho thấy đúng là sự lạ lùng ấy đã gây xôn xao cả xóm một thời, và hơn cả sự huyên náo ấy là cái dư vị mà nó tạo nên “một cái gì lạ lùng mát rượi đang ập đến trong niềm mong mỏi, đêm ngày của họ”. mạng sống.”

+ Sự đối lập không chỉ ở bên ngoài mà còn tồn tại trong tâm hồn nhân vật. Ngòi bút tâm lí của Kim Lân đã len lỏi đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để phát hiện và miêu tả những trạng thái tâm lí đối lập ở mỗi con người: thậm chí không biết tự lo cho mình. đeo được”. và giấc ngủ chập chờn của một người đàn ông chưa bao giờ được hạnh phúc khi sống trong một gia đình toàn “chậc, chậc chậc”, ở bà Tư là sự ngậm ngùi bởi thân phận lay lắt, cuộc đời nghèo khó. bất hạnh, không biết tương lai. và niềm vui khi con trai bà có vợ…

+ Từ những tương quan tương phản đó, nhà văn đã dày công miêu tả tâm lí nhân vật với những biểu hiện vô cùng phong phú để đi đến một khẳng định: cái đói, cái chết với những ám ảnh khủng khiếp mà nó gây ra. . Tôi không tìm hạnh phúc ở người biết sống nhân nghĩa. Anh Trang cũng biết lo cho mình mà còn biết lo cho vợ mới (mua / dầu hào). Bà Tú cả đời nghèo khổ nhưng rất mực yêu thương con cái, đối xử nhân hậu. Với những biểu hiện về tâm hồn và tính cách như vậy, sự sống chiến thắng cái chết có ý nghĩa vì nó gợi lên nhiều cảm xúc.

– Tương quan tương đồng trong ảnh hưởng tâm lý nhân vật: Trước khi Tràng đưa vợ về, cả khu chung cư cũng như tài sản riêng của anh đều chìm trong đói khát: lũ trẻ ủ rũ, anh Tràng “khò khè nhiều hơn” , mệt mỏi nặng nề. Khi Tràng đưa vợ về, cả khu phố như bừng dậy một sức sống mới, mọi thứ dường như đã thay đổi hoàn toàn, ngay cả cái đói cũng nổi lên nhường chỗ cho sự sống và niềm vui: hàng xóm bàn tán xôn xao. xôn xao, lũ trẻ xúm quanh Tràng, Tràng khác thường và đặc biệt. nghiêm túc, chững chạc Chắc hẳn người phụ nữ nào cũng trở nên dịu dàng, đoan trang, tuy không mấy hạnh phúc nhưng cảnh gia đình yên ấm đã khiến bà Sau khi về làm dâu thực sự, bà cụ Tú sau bao lo toan, nỗi buồn vô tận chuyển sang niềm vui và nhanh chóng đứng dậy. Dù cái đói, cái chết vẫn bủa vây, dày vò trong tháng ngày đói lạnh. nhưng sự sống, niềm vui đã trở lại trong cuộc đời mỗi người.

– Như vậy, khi xây dựng vấn đề cần giải quyết, nhà văn ít khai thác các mối quan hệ đời sống bên ngoài mà chủ yếu đi sâu vào miêu tả diễn biến tâm lí. Vì vậy, tuy câu chuyện gợi lên cuộc sống bi đát của con người trong năm đói nhưng ấn tượng đậm nét mà nó tạo ra chính là ý nghĩa thiêng liêng của cuộc sống và tình người.

* Tổ chức điểm nhìn trần thuật:

Nhẹ nhàng tránh sự đơn điệu, hơi nhạt và cũng để tạo chiều sâu tâm lý cho lãng phí, Kim Lân đã rất khéo léo khi tổ chức điểm nhìn trần thuật: người kể có lúc đứng ngoài quan sát, kể và miêu tả khách quan, có lúc hóa thân vào nhân vật để hồi tưởng và kinh nghiệm. Câu chuyện trở nên đầy trữ tình và dịu dàng, khả năng gợi cảm cao nhất khi nhà văn nhập giọng người kể vào tiếng nói nội tâm của nhân vật biến lời tự sự thành lời tự sự bởi dòng suy nghĩ của nhân vật (đoạn miêu tả tâm trạng bà cụ Tứ) đã miêu tả sâu sắc, tinh tế những trạng thái tâm lý và phản ứng tâm lý của nhân vật trước sự kiện.

*Ngôn ngữ truyện:

– Ngôn ngữ người kể: Có lúc tự nhiên, hóm hỉnh, hóm hỉnh (đoạn tả cảnh Tràng quen biết, đính hôn rồi thành vợ thành chồng), có lúc trang trọng, chân thật (đoạn văn). tả tâm trạng bà cụ Tứ) và nhìn chung đều giản dị mà vẫn rất gợi cảm, có những đoạn chân thành chứa chất thơ (đoạn tả cảm nghĩ của Tràng, đoạn tả tâm trạng bà cụ Tứ).

– Ngôn ngữ nhân vật: Đáng chú ý nhất là ngôn ngữ đối thoại: rút gọn, giản dị, đôi chỗ hơi thô và phù hợp với tính cách nhân vật, phù hợp với mục đích lời nói của nhân vật, đó là ngôn ngữ vừa quen thuộc, hữu nghị, vừa thăm dò, vừa xa lạ vừa gần gũi.

* Phát hiện chi tiết:

Tác giả sử dụng nhiều chi tiết rất gợi để tạo không khí cho truyện (than thở, tiễn người chết, xác chết). Đặc biệt, có những chi tiết có sức phát hiện và sức biểu cảm lớn (Chàng Trương mua 2 hào dầu đưa cho vợ, Thắng tắt đèn, bữa cơm hôm đói…) Các chi tiết tạo nên sự cụ thể. tính năng động của vấn đề, làm nổi bật bản chất nhân văn ở con người.

*Cốt truyện:

Xoay quanh và bám sát sự kiện vợ Tràng nhưng không đơn điệu một chiều, người viết cố ý đảo ngược trình tự trần thuật để vừa dẫn dắt, giải thích, vừa bình luận để khai thác các khía cạnh của sự việc. .

1.3. Kết luận:

– Ngòi bút linh hoạt, bố cục của Kim Lân đã giúp ông tạo nên trong truyện ngắn Vợ Đổi một tình tiết bất ngờ, kịch tính: Lạ lùng, khó hiểu và cảm động. Cách xử lý đó được phát triển một cách tài tình và sâu sắc đã thể hiện nội dung phong phú của tác phẩm.

– Cần khẳng định: Nhân vật được xây dựng trong truyện ngắn Vợ nhặt không chỉ là nghệ thuật mà còn là khả năng của Kim Lân trong việc phát hiện và đồng cảm sâu sắc với số phận, cảnh ngộ của con người.

2. Bài phân tích giá trị nghệ thuật trong tình huống truyện Vợ nhặt hay nhất:

“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Kim Lân khi viết về cuộc sống và con người ở nông thôn. Khi viết về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Một trong những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Kim Lân trong truyện ngắn Vợ Nhặt là đã xây dựng một cốt truyện xử lý truyện độc đáo, hấp dẫn”. Có thể nói đây chính là mấu chốt thành công của tác phẩm.

Là một cây bút vàng viết truyện ngắn, Kim Lân viết về người nông dân và cuộc sống ở nông thôn bằng tình cảm và tâm hồn của một người là “những đứa con” của đồng ruộng. Anh Hai, chị Tư, anh Tràng… xuất hiện trong tác phẩm có tâm hồn thật thà, thẳng thắn và chiếm được nhiều thiện cảm trong lòng người đọc. Được sáng tác ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công và sau này được viết lại trong phần Sau hòa bình lập lại (1954), truyện ngắn có trước tiểu thuyết “Làng có người ở”, là câu chuyện về cuộc đời của những con người không nơi nương tựa. Vùng quê chính thức ở vùng đất nơi anh ta sinh ra. Trên bối cảnh lịch sử của nạn đói năm 1945, Kim Lân đã đặt nhân vật của mình vào một tình tiết độc hại vừa buồn vừa vui, vừa hạnh phúc nhưng cũng đầy lo lắng.

Nghệ thuật xây dựng tình tiết là đặt nhân vật vào những bối cảnh nhất định, tạo môi trường để nhân vật hoạt động, qua đó bộc lộ tính cách. Trong tác phẩm, Kim Lân đã tạo ra một tình huống đặc biệt. Đó là tình tiết một anh nông dân nghèo tên Tràng, xấu xí, có nguy cơ mất vợ, bỗng trở về có một người vợ, nhưng là một con bù nhìn, đi theo không chỉ là một bài hát ngớ ngẩn và bát quái. Tình trạng của anh ta kéo theo một loạt các điều kiện khác nhau mà không làm mất hứng thú.

Mối tình này đã gây ngạc nhiên lớn cho bà con lối xóm, cho mẹ Tràng và cả cho chính bản thân Tràng, bởi hai lẽ: Ai mà ngờ được một người nghèo, xấu xí, dù có vẻ hơi bé tí lại là dân ngụ cư như Tràng lại có thể lấy được vợ. Hơn nữa, trong bối cảnh lúc bấy giờ, khi nạn đói hoành hành, khắp nơi người ta xua đuổi những con người “xám như những bóng ma, nằm ườn ra quét chợ (…) Không khí mịt mù khói. mùi xác người”, một người như Tràng còn không phụng dưỡng được mẹ già chứ đừng nói đến một mớ hỗn độn. Bằng cách đó, sự kiện vô lý và không thể nhưng gây sốc vẫn tiếp tục diễn ra. Khi Tràng đưa người phụ nữ lạ mặt về nhà, cả khu phố ngơ ngác. Không thể là vợ Tràng, họ bắt đầu đồn đoán:

Ai đấy nhỉ?… Hay là người nhà dưới quê bà cụ Tứ mới lên?

– Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.

– Quái nhỉ?

Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc.

– Hay là vợ anh cu Tràng? ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để”.

Niềm hạnh phúc của đồng loại tạm thời làm người ta quên đói trong giây lát. “Họ dường như hiểu gấp đôi. Khuôn mặt hốc hác của họ đột nhiên hiện ra. Có điều gì đó lạ lùng và mát mẻ như cuộc sống trong đêm muộn đầy khao khát của họ.” Nhưng rồi lại nghe. “Ôi trời! Giờ mảnh đất này còn mang lại món nợ đời. Bạn có biết liệu họ có thể nuôi nhau và sống qua điều này điều này không?”.

Từ đây, Kim Lân lôi cuốn người đọc vào những vấn đề trước đây rất thú vị như lời giải thích cho việc làm bù khú của vợ chồng Tràng, một vấn đề không hơn không kém. Trông vợ chỉ nhờ câu hát vu vơ khi đưa xe bò cho đỡ mệt:

“Muốn ăn cơm trắng với giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”

Cái đói khiến người ta mất cả sự xấu hổ và lòng tự trọng. Người phụ nữ lấy câu nói của Tràng như một cứu cánh cho cuộc đời mình. Lần thứ hai gặp lại, họ “thú nhận”: “Hôm đó trèo lên mất mặt”, không chịu xuống làm bát bánh xèo. Vì vậy, nên vợ nên chồng.

Có thể nói đây là một vấn đề rất bức xúc, không biết nên vui hay nên buồn, không biết nên mừng hay nên lo? Tâm trạng liên tục xuất hiện trong suy nghĩ đầy đủ của những người liên quan. Tràng “lúc đầu nghĩ: Hội cơm này ngay cả thân mình cũng không biết có nuôi nổi hay không, còn đò”. Nhưng rồi cũng đánh trống lảng. Cái cảm giác ấy cùng với những cảm xúc mới lạ khiến nó cứ như một đứa trẻ. Khác với Tràng, bà thứ tư là người từng trải, thấy con mình trở về với một người đàn bà xa lạ “nhìn người mẹ tội nghiệp, ông hiểu ra nhiều điều, vừa xót xa, vừa thương hại cho số phận con mình”. Cô hiểu cả hoàn cảnh của người phụ nữ, cũng như tình trạng khó khăn sắp xảy ra của cả gia đình. Lo lắng và hy vọng đan xen, “May mà qua được đoạn này, con trai cũng có vợ, yên bề gia thất, có khi giết chết con cũng phải khổ chứ sao phải lo. ?Nó có thể kết thúc?” Bản thân người phụ nữ sau những giây phút loay hoay kiếm cái gì ăn, theo người ta về nhà, hẳn lúc này cũng đang suy nghĩ rất nhiều. Thị trở về với dáng vẻ bẽn lẽn, thẹn thùng, rụt rè “cúi mặt xuống, tay mân mê vạt áo rách”.

Đặt nhân vật vào một tình huống đặc biệt, éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật những ý nghĩa sâu xa của truyện. Qua tình huống đan xen giữa nụ cười và nước mắt đó, truyện kể lên án gay gắt chống lại bọn thực dân phong kiến phát xít và bè lũ tay sai đã gây ra nạn đói năm 1945, cầm đầu là bọn lừa đảo. đảo đến chết, dẫn đến tréo ngoe, rẻ rúng giá trị con người: người ta có thể nhặt vợ chỉ bằng bốn bát bánh đúc.

Tình yêu ấy cũng chính là môi trường để nhân vật bộc lộ những nét tính cách cũng như đời sống tinh thần của mình. Bề ngoài, anh là một thanh niên giản dị, hiền lành, chỉ chăm chỉ làm việc và có đời sống nội tâm hơi giản dị. Bà Tư mang trong mình sự từng trải, suy tính trước sau. Tràng “nhặt” được vợ, nàng vừa mừng vừa lo. Cô hiểu mớ hỗn độn mà cô và những người xung quanh đang trải qua, hiểu vị trí của cư dân trong quan điểm của người khác, hiểu tình huống kỳ lạ và táo bạo của con trai cô. Hơn nữa, chị cũng thấu hiểu và đồng cảm với hành động nghĩa hiệp của người phụ nữ “Người ta gặp cảnh khó khăn, đói khổ thế này mới bế con về”. Ngày đầu tiên của cuộc sống mới, chính cô là người gợi mở về một tương lai tươi sáng, gieo vào lòng đôi trẻ niềm hy vọng. Còn với cô “vợ hờ”, tính cách của cô thay đổi đến bất ngờ: từ một cô bồ nhí, đanh đá trở thành một chị đảm đang, đảm đang, đảm đang, hiền lành, biết điều. cho cuộc sống gia đình.

Thông qua cách giải quyết truyện độc đáo, Kim Lân cũng muốn nói lên khát vọng của con người là có thể vượt lên hoàn cảnh để được sống và có được hạnh phúc. Người lao động dù trong hoàn cảnh éo le đến đâu, dù cận kề cái chết vẫn luôn khao khát ánh sáng, tin tưởng vào cuộc sống và tương lai. Giá trị nhân bản của tác phẩm là ở đó. Câu chuyện kết thúc với ánh sáng báo hiệu điều gì đó tốt đẹp hơn đang đến. Tràng “chợt nhận ra quanh mình có cái gì mới lạ, vừa thay đổi…” và anh khấp khởi hy vọng: “Khánh đã có gia đình, vợ chồng anh sẽ sinh con đẻ cái. Ngôi nhà như một mái ấm che chở. từ mưa nắng. Một nguồn vui, sự phấn khởi tràn ngập trong lòng. Giờ tôi mới thấy bổn phận làm người, bổn phận là lo cho vợ con sau này”. Người mẹ già cũng “nhẹ nhàng, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường”, khuôn mặt ủ rũ của bà “sáng bừng lên”. Và tất nhiên, người ta phải nói nhiều nhất về sự thay đổi của “nàng dâu”, giờ đây trong vai vợ hiền dâu thảo. Hình ảnh đám người đi thám hiểm vừa mới bắt đầu đã gieo vào lòng Tràng đầy hình ảnh như dự báo một cuộc cách mạng không sớm thì muộn sẽ xảy ra những chuyện nhẹ nhàng.

Xây dựng một tình cảm đặc biệt trong “Vợ Nhặt”, một lần nữa Kim Lân đã chứng tỏ cái tâm và cái tài của mình với tư cách là một nhà văn suốt đời đi về với “đất”, về với “người”, về với “dân tộc”. “hậu nguyên thủy” của đời sống nông thôn.

“Vợ nhặt” là một truyện ngắn đặc sắc trong thủ pháp xây dựng tình tiết lạnh lùng. Điều này đã phần nào góp phần thể hiện chủ đề, tư tưởng cũng như tăng sức hấp dẫn cho tác phẩm.

3. Bài phân tích giá trị nghệ thuật trong tình huống truyện Vợ nhặt ý nghĩa nhất:

Mỗi tác phẩm văn học khi được thu nhỏ lại đều để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khác nhau. Tiếng vọng của anh ta có thể là một nhân vật, một chi tiết hay một sự kiện. Đến với truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, điều ấn tượng nhất trong lòng người đọc chính là tình huống truyện độc đáo. Nghệ thuật đặt vấn đề và giải truyện của Kim Lân đã góp phần to lớn làm nên thành công của tác phẩm và tên tuổi nhà văn Kim Lân.

Tình trạng của câu chuyện là gì? Cốt truyện tình ca được hiểu là sự kiện xảy ra trong truyện, là “thời gian” mà Nguyễn Minh Châu cho là “chứa đựng những vết xước của kiếp người”. Từ tình huống truyện, người đọc thấy rõ hơn mối quan hệ giữa các nhân vật, giữa nhân vật với hoàn cảnh, từ đó thể hiện tư duy tưởng tượng của toàn bộ tác phẩm. Trạng thái của kiệt tác Vợ nhặt là một trạng thái lạ, độc đáo, oi bức và rạng ngời.

Đầu tiên, người đánh giá ở đây là một tình huống vô cùng độc đáo. Chú Tràng, một người hàng xóm xấu xí, chất phác, lấy được vợ trong nạn đói lịch sử.

Tràng chưa vợ nhưng “kén vợ”. Trong một lần kéo xe bò lên tỉnh, Tràng gặp Thị, chỉ với bánh chưng bánh dày, Thị đồng ý theo Tràng về làm vợ. Trong mắt hàng xóm, người như Trang không lấy được chồng. Vì lúc này người ta luôn coi cư dân là tầng lớp dưới đáy bị xã hội coi thường và coi thường, coi người này là người ở thì cũng sẽ bị người khác coi thường. Hơn nữa, Tràng là người xấu xí, nghèo khổ. Giữa lúc khó khăn ấy, đã khó nuôi gia đình, lại còn vướng vào chuyện vợ con.

Nhưng, trong hoàn cảnh éo le ấy, người vợ đáng thương hơn là bị coi thường, khinh bỉ. Vợ là người phải được cưới hỏi đàng hoàng, hoàng hậu đàng hoàng, đầy đủ lễ vật, nghi thức đón dâu. Bởi vậy, người vợ mà Tràng cưới hôm nay thật rẻ mạt, chỉ bằng một câu nói đùa và bát bánh chưng ngày Tết. Tình yêu của vợ và bất hạnh, niềm vui vu vơ nhưng đầy bi kịch. Mặc dù nó không có vẻ phi logic, nhưng nó có ý nghĩa hoàn hảo. Chăm sóc vợ là việc làm vào thời điểm đó, nạn đói hoành hành, nếu không có bánh mì, sẽ không có người phụ nữ nào sẵn sàng lấy một người đàn ông như anh. Hành động ôm vợ tuy chỉ là hành động nhất thời nhưng cũng thể hiện sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau của anh với Thị, thể hiện tình yêu thương giữa con người với con người trong nạn đói năm ấy.

Bên cạnh đó, vấn đề rác thải cũng là một thực trạng dễ bùng phát. Trong một gia đình bình thường, việc con trai trưởng lập gia đình thường mang lại niềm vui cho người cha và người mẹ. Nhưng tiếc thay, anh ta đã có vợ, khiến bà cụ Tứ vừa mừng vừa tủi, hàng xóm láng giềng chẳng thèm ngó ngàng gì thêm. Ai chỉ nghĩ rằng dưới cái bóng ảm đạm đang bao trùm cả vùng này, “từ bao giờ cái đói đến làng này”, việc lấy vợ càng làm cho cuộc sống khó khăn hơn? Bà Tư còn nghĩ đến điều tệ hại hơn: “Chắc chúng nó lấy nhau rồi, đói khát thế này có nuôi được không?”. Bà mừng vì con trai sắp lấy vợ nhưng lúc này bà lại lo lắng cho tương lai của chồng và các con. Bản thân Trang từng ngao ngán khi nghĩ đến niềm hạnh phúc nhỏ nhoi vừa được nhen nhóm: “Không biết cơm này có đủ nuôi thân không, còn váy bò?”. Xấu hổ cũng giống như niềm vui. Có lẽ ai cũng nhìn ra, người đàn bà chấp nhận Tràng vì muốn qua khỏi cơn đói, bám vào chiếc phao cứu sinh mong được sống. Tất cả bọn họ đều có thể bày tỏ sự thương cảm. Nó len lỏi vào suy nghĩ của mỗi nhân vật và bao trùm cả đêm tân hôn. Đêm tân hôn của đôi tân hôn Gió từ bờ sông thổi vào, ngọn đèn dầu leo lét và tiếng thở dài của người chết vang vọng khu nhà ở.

Từ những giá trị đó chúng ta mới cảm nhận được giá trị thực tiễn vô cùng sâu sắc. Cái mớ đó đã góp phần phơi bày số phận của những người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Họ phải chịu những bất công từ cuộc đời. Vì nghèo nên Tràng không lấy được vợ, phải chờ cơ hội “trời cho” khi thân phận con người trở nên rẻ rúng. Cơ hội đó không phải là một thời sáng sủa tươi đẹp hơn mà chính là nạn đói lịch sử, bi kịch đau thương của bao người. Hoàn cảnh đó khiến người phụ nữ tự nguyện từ bỏ phẩm giá, giá trị của mình để đi theo một người đàn ông xa lạ làm vợ.

Ngoài giá trị hiện thực, vấn đề còn thể hiện giá trị nhân đạo khiến người đọc phải suy nghĩ nhiều. Từ cảm xúc lưu luyến của mình, Kim Lân gợi lên trong lòng mỗi người niềm tiếc nuối xa xứ và niềm thương cảm cho những số phận nông dân nghèo khó. Đồng thời cũng góp phần chăm lo những phẩm chất đáng quý của người nông dân giữa cảnh đói khát. Trong niềm khao khát ấy, mẹ con bà cụ Tư Bò cũng không khá hơn, sẵn sàng dang rộng vòng tay đón một người khách lạ. Lời mời “anh đi cùng em chất hàng lên xe về đi” của Tràng nghe như đùa nhưng thực chất lại có ý nghĩa như một cơ hội nghiên cứu đang cháy bỏng từ bờ vực của sự chết đói. đến hạnh phúc gia đình. Người đàn ông có vẻ ngây thơ nhưng vẫn quan tâm, lo lắng và quan tâm đến hạnh phúc của tôi. Dù chỉ là người được vợ cưng chiều nhưng anh vẫn đưa Thi đi nhà hàng ăn uống thật hậu hĩnh, mua cho Thi cái giỏ, cái ví và ít đồ lặt vặt, mua dầu thắp đèn đêm tân hôn…  Tràng còn giới thiệu bản thân đàng hoàng với mẹ bạn để bà bớt xấu hổ.

Kim Lân qua việc khắc họa các nhân vật trong cốt truyện tự sự cũng thể hiện niềm tin vào tương lai cuộc đời của họ. Đây là giá trị nhân đạo mới của ông. Điều này được thể hiện rõ trong đoạn kết khi nghe vợ kể chuyện những người nông dân ở Thái Nguyên, Bắc Giang phát hiện ra giọt mồ hôi chung của người nghèo và nhớ đến cảnh đoàn người với cờ đỏ sao vàng trên đê Sộp.

Có thể nói, truyện Vợ nhặt mang nhiều giá trị sâu sắc, thể hiện tài năng của ngòi bút Kim Lân. Một tình huống éo le cho vợ vừa lạ lùng, vừa éo le nhưng lại thể hiện cái nhìn niềm tin của người nông dân vào sự thay đổi của số phận. Nó quan tâm đến nhân cách con người ngay cả trong những năm tháng khó khăn, trong nạn đói lịch sử năm 1945. Với những giá trị sâu sắc ấy, người đọc càng cảm thông hơn với tư tưởng nhân đạo của Kim Lân. Đã nhiều năm trôi qua, “Vợ nhặt” vẫn là một tác phẩm tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trênDuong Gia FacebookDuong Gia FacebookDuong Gia TiktokDuong Gia TiktokDuong Gia YoutubeDuong Gia YoutubeDuong Gia GoogleDuong Gia Google
5/5(1
bình chọn
)

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com