Để chuẩn bị cho một tiết học hiệu quả và có kế hoạch giảng dạy hơp lý, trước khi lên lớp chúng ta cần phải soạn bài đầy đủ, hôm nay chúng tôi sẽ giới thiệu đến các bạn bài Soạn Rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài trong văn nghị luận, cùng tham khảo nhé
1. Soạn bài Rèn luyện kĩ năng mở bài
1.1. Câu 1 nhận xét về các mở bài:
– Mở đầu (1): Bố cục ổn, nhưng không cần thông tin lý lịch của tác giả
– Mở bài (2): Câu đầu đưa thông tin chưa chính xác, giới thiệu chủ đề và định hướng nội dung bài viết
– Mở bài (3): Viết logic, hợp lí, cần học
1.2. Câu 2 đánh giá các mở bài dưới đây:
Mở bài 1:
– Chủ đề triển khai trong văn bản là nội dung Tuyên ngôn độc lập của nước ta 1945
– Sự tự nhiên, hấp dẫn khi trích dẫn hai bản tuyên ngôn: Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp với cơ sở tư tưởng và bản gốc cho Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam
Mở bài 2
– Chủ đề của văn bản là nội dung nghệ thuật của Bài ca Tống biệt hành – Thâm Tâm
– Dùng biện pháp so sánh tương đồng để nêu chủ đề, giới thiệu (so sánh Thâm Tâm và Tống biệt – Thôi Hiệu và Hoàng Hạc Lâu)
Mở bài 3:
– Chủ đề: nét độc đáo, giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
– Tính tự nhiên, hấp dẫn: nêu thành tích trước Nam Cao, tạo bước đệm tôn vinh tài năng của Nam Cao
1.3. Câu 3 nhận xét về mở bài:
Phần mở bài: giới thiệu đề tài, chủ đề nên cần nêu ngắn gọn xuất xứ đề tài, các thông tin về đề tài cần ngắn gọn, chính xác, có lối viết gây hứng thú cho người đọc.
2. Viết phần kết bài:
2.1. Một phần kết bài gồm những gì?
Kết bài 1: nội dung còn chung chung, chưa khái quát và khẳng định hình tượng người lái đò tài hoa, khéo léo. Phần này liên kết lỏng lẻo với thân bài
Kết bài 2: Hoàn chỉnh, khái quát, mở rộng và phát triển chủ đề. Kết nối mạnh mẽ với nội dung của bài.
2.2. Nhận xét về các mở bài:
Kết bài 1: dàn ý, khẳng định ý nghĩa của vấn đề đã trình bày: VN có quyền hưởng tự do, độc lập, liên hệ, mở rộng các khía cạnh quan trọng của vấn đề.
Kết bài 2: Nêu nhận định chung có đoạn văn đứng trước kết bài, kết bài chỉ nhấn mạnh điều khẳng định bằng một câu ngắn gọn, sau đó mở rộng ra và nêu nhận định chung.
→ Hai kết bài, vừa dùng biện pháp chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa phần kết bài với các phần trước của văn bản, vừa đánh dấu phần kết thúc của bài văn.
2.3. Vai trò của mở bài:
Thông báo về việc trình bày đầy đủ về vấn đề, đánh giá toàn diện, sâu sắc và gợi mở hơn
3. Phần luyện tập:
3.1. Ưu nhược điểm của các mở bài:
Mở bài 1:
– Giới thiệu ngắn gọn, trực tiếp vấn đề, khái quát về tác phẩm, nội dung cần nghị luận
– Ưu điểm: nhấn mạnh được phạm vi vấn đề, nêu được những luận điểm quan trọng giúp người đọc tiếp thu văn bản, nắm bắt được vấn đề cụ thể.
Mở bài 2:
– Gợi mở vấn đề có liên quan đến nội dung chính thông qua luận điểm, luận cứ
– Ưu điểm: giới thiệu tự nhiên, sinh động, tạo hứng thú cho người tiếp nhận
3.2. Đánh giá khuyết điểm của mở bài và kết bài:
Mở bài: chưa đạt yêu cầu: đưa quá nhiều thông tin về tác giả. Luận điểm: Bi kịch của Mị quá chi tiết, luận điểm về cái đẹp và phẩm chất của tôi chỉ giới thiệu sức sống tiềm tàng.
Kết bài: Không kết luận được, ý của đề trùng với ý mở bài. Lỗi lặp từ, lỗi liên kết. Đây chính là lỗi thường thấy khi viết kết bài. Kết bài là việc đánh giá lại nội dung, tổng kết lại vấn đề của cả bài viết, bởi vậy kết bài cần phải có tính súc tích và bao trọn đươc nội dung của toàn bộ bài viết.
3.3. Các mẫu mở bài bài Sóng:
Mẫu 1: Xuân Quỳnh là nhà thơ của tình yêu và khát vọng hạnh phúc giữa đời thường. Trong bài “sóng” tác giả lần đầu tiên bộc lộ những tâm tư, những trạng thái thầm kín, những chuyển biến tinh tế của tâm hồn người thiếu nữ khi yêu, gắn bó mật thiết với khát vọng hạnh phúc vĩnh cửu của con người. Hình ảnh sóng nhiều tầng lớp đã nói lên niềm khát khao của người phụ nữ về một tình yêu trong sáng, mãnh liệt và luôn rực rỡ.
Mẫu 2: Từ đó, những con sóng nhỏ từ sông, từ biển đã chạm vào trái tim người nghệ sĩ. Nếu Nguyễn Khuyến thổi hơi thở mùa thu trong trẻo trên mặt gợn sóng, hay Huy Cận vẽ lên sóng Tràng Giang bằng tiếng thơ lẻ loi của một thi nhân cô đơn trước thời đại, thì nhà thơ Xuân Quỳnh khoác lên sóng bàng bạc bên kia chiếc áo của tình yêu nồng nàn, vĩnh cửu với tâm hồn nồng nàn, cháy bỏng. Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang vào giai đoạn sôi sục thì vẻ đẹp dịu dàng, thủy chung trong tình yêu của người con gái được nữ thi sĩ Xuân Quỳnh thể hiện trong bài thơ “Sóng” càng tỏa sáng như một viên ngọc quý của văn chương.
Mẫu 3: Tình yêu – đề tài bất hủ, quen thuộc của văn học nghệ thuật; nó còn là nguồn cảm hứng vô tận của những nghệ sĩ thiết tha với cuộc sống và con người. Có thể nói, con người sinh ra đã có tình yêu, và chỉ cần con người còn tồn tại thì tình yêu sẽ luôn bất tử. Trong lịch sử thơ ca nhân loại từ xưa đến nay, đã có biết bao thi nhân viết về tình yêu, bao bài thơ tình nổi tiếng khắp Đông Tây đã ra đời, nhằm ca ngợi tình người và lay động biết bao trái tim của nhiều thế hệ. Ở Việt Nam chúng ta, trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mặc dù phạm vi thơ ca lúc bấy giờ chủ yếu được mở rộng hướng tới những tình cảm lớn như yêu Tổ quốc, yêu đất nước, yêu đồng bào, yêu cuộc cách mạng, nhưng thơ vẫn dành một thời lượng nhất định cho tình cảm riêng tư, tình yêu đôi lứa. Nhiều bài thơ ca ngợi tình yêu đôi lứa ra đời trong thời kỳ này đã làm rung động trái tim của nhiều thế hệ. Và “Sóng” của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh là một bài thơ như thế
Mẫu 4: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ nổi tiếng của nền văn học hiện đại nước ta. Tuy tuổi thọ ngắn ngủi do một tai nạn bất ngờ nhưng những tác phẩm bà để lại vẫn để lại dư âm lớn và có sức lay động lòng người. Trong thơ Xuân Quỳnh, chủ đề tình yêu luôn chiếm ưu thế. Tình yêu trong thơ của nhà thơ Xuân Quỳnh mang nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, có lúc nhẹ nhàng, rụt rè nhưng cũng có lúc vô cùng mãnh liệt, quyết liệt. Có lúc rất gần, có lúc lại rất xa, mang đến cho người đọc nhiều tâm trạng xao xuyến khác nhau. Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là một bài thơ vô cùng độc đáo thể hiện tâm trạng của người con gái trong tình yêu. Những giận hờn, tiếc nuối, ghen tuông vô cớ được tác giả Xuân Quỳnh thể hiện rất nữ tính trong bài thơ, khiến người đọc, người nghe thổn thức theo từng câu thơ.
Mẫu 5: Bao nhiêu người đã yêu, bao nhiêu người đang yêu và bao nhiêu bài thơ tình trên đời này! Tuy nhiên, mỗi ngày đều mới. Tình yêu không có tuổi thơ. Tình yêu không bao giờ già đi. Có rất nhiều nhà thơ nổi tiếng trên thế giới: Rimbo, Verlen, Pushkin, Bairon… và mỗi người có một cách nhìn và cảm nhận khác nhau. Từ thời thơ Đường, từ thời Nguyễn Du, rồi Thế Lữ, Xuân Diệu và đến chúng ta hôm nay…, tình yêu vẫn là thứ khiến con người say đắm, khao khát. Xuân Quỳnh – nhà thơ của tình yêu với bài “Sóng” đã thể hiện nhiều cung bậc của tình yêu. Bài thơ Xuân Quỳnh cháy bỏng tình yêu nồng cháy của tuổi trẻ và khát vọng tình yêu của con người. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không còn dừng lại ở mối tình đầu đơn thuần, buổi hẹn hò thuở còn trẻ ngọt ngào mà là một tình yêu hạnh phúc gắn liền với một đời chung thủy.
Mẫu 6:
Nhà thơ Huy Cận đã từng nói, khi đi dạo bên bờ biển, lòng cảm thấy lâng lâng lạ thường. Với anh, sự xao xuyến lạ lùng đó là cảm giác về sự cao cả của con người khi đi dọc bờ biển, tuy rộng lớn nhưng dường như con người vẫn làm chủ được thiên nhiên, biển cả. Còn với Xuân Quỳnh – cô gái lụa Hà Đông, điều nghịch ngợm khi đi dọc bãi biển mênh mông, với những con sóng vỗ bờ, chính là con sóng tình yêu, con sóng trong trái tim người con gái đang yêu nói chung. Một tình yêu với những lo lắng, khao khát được hòa quyện trong tình yêu bao la ấy.
Nếu như Lưu Quang Vũ được coi là nhà viết kịch tiêu biểu, tiên phong trong việc giải phẫu căn bệnh ung thư của con người về lòng tham sau khi chiến tranh kết thúc, thì Xuân Quỳnh, thơ Xuân Quỳnh lại mang đến một nỗi khát tình. Vậy đấy, nhưng vẫn đong đầy yêu thương. Ba khổ thơ cuối bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một cô gái đang yêu, khao khát được yêu thương, gắn bó.