Vai trò của người lãnh đạo đối với mệnh của đất nước rất quan trọng, bởi họ là người quyết định những chính sách, đường lối để đất nước đi theo, hôm nay hãy cùng chúng tôi bàn về vai trò của người lãnh đạo đối với đất nước siêu hay
1. Dàn ý suy nghĩ về vai trò của người lãnh đạo đối với đất nước siêu hay:
1.1. Mở bài:
Xưa nay, nhà nước phong kiến với bộ máy lãnh đạo tức là vua quan trọng triều đình thì quốc gia lại càng có ảnh hưởng quan trọng.
Tìm hiểu hai văn bản “Chiếu tướng” của Lý Công Uẩn và “Hịch tướng sĩ” của Thái úy Quốc công Trần Hưng Đạo, chúng ta sẽ hiểu thêm về vấn đề này.
1.2. Thân bài:
1. Văn bản: “Chiếu dời đô” với Lý Công Uẩn
Tuy viết theo thể chiếu, dùng để tâu lệnh vua ban cho thần dân, nhưng Lý Công Uẩn viết nhẹ nhàng, phân tích kỹ những ưu điểm của kinh đô mới Đại La, đồng thời cũng muốn chất vấn ý kiến của thần dân và của mình. Mọi người: “Các khanh thấy thế nào?”.
Người lãnh đạo anh minh còn phải biết lo cho hạnh phúc lâu dài của nhân dân, không chạy theo lợi ích trước mắt mà quên lợi ích lâu dài. Lý Công Uẩn là một trong những vị vua sáng suốt như vậy.
Ông chọn Đại La làm kinh đô không phải ngẫu nhiên mà đã nhiều lần quan sát, nghiên cứu. Đại La là trung tâm, nơi hội tụ nhiều sông lớn, lại nằm trong vùng châu thổ nên rất thuận tiện cho việc đi lại; Nơi đây cũng là nơi mưa thuận gió hòa, đất đai màu mỡ, người dân sống sung túc, giàu có, vạn vật trù phú, tươi tốt,…
Theo Lý Công Uẩn, nơi đây xứng đáng là “kinh đô của đế vương muôn đời”.
Vua chọn thủ đô mới vì dân, vì sự phát triển của đất nước chứ không phải thủ đô ẩn sâu trong núi rừng, chỉ thích hợp khi cần trường quay như Hoa Lư.
Nhờ sự nhìn xa trông rộng đó mà đất nước ta ngàn năm bền vững và thành Đại La, sau đổi tên là Thăng Long, nghĩa là rồng bay, đã tồn tại và gắn bó mấy thế kỷ với các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Lý Công Uẩn tuy làm vua dưới chế độ phong kiến nhưng phần nào đã mang quan niệm “dân chủ”, một quan niệm rất tiến bộ về sau, đó là lấy dân làm chủ, chỉ có triều đình và nhà nước để giúp mọi người đạt được hạnh phúc lâu dài.
2. Văn bản: “Hịch tướng sĩ” với Trần Quốc Tuấn
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có tư duy của một danh tướng thời loạn: khoan dung, nghiêm khắc.
Đất nước đang phải đối mặt với quân xâm lược Nguyên-Mông mạnh nhất lúc bấy giờ, với thuộc địa trải dài từ Trung Quốc sang châu Âu.
Ông biết rằng đoàn kết với nhân dân sẽ là chìa khóa cho vận mệnh nguy hiểm của đất nước.
Chính ông là người đi đầu trong việc đoàn kết nhân dân, xóa bỏ mọi hiềm khích giữa ông và nhà vua.
Nhờ hiểu dân, thương dân, Trần Quốc Tuấn đã trực tiếp nắm được phần trong tay kẻ thù mạnh nhất.
1.3. Kết bài:
Qua hai văn bản ‘Hịch tướng sĩ’ và ‘Hịch tướng sĩ’, em hiểu rõ vai trò của người lãnh đạo sáng suốt.
Các vị lãnh tụ là những người nắm vận mệnh của đất nước, chính các vị đã cho tôi nước Việt Nam ngày hôm nay, tôi rất biết ơn các vị và tự hào là người Việt Nam.
2. Suy nghĩ về vai trò của người lãnh đạo đối với đất nước siêu hay:
Để lãnh đạo một đất nước giàu mạnh và phát triển, đất nước đó phải có những người lãnh đạo thông minh, sáng suốt, có những quyết định đúng đắn cho vận mệnh của đất nước. Trong lịch sử, chúng ta có thể thấy vai trò của hai nhà lãnh đạo tài ba Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn qua hai văn bản Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ. Họ là hai tấm gương lãnh đạo vĩ đại đã làm nên những trang sử chói lọi cho đất nước trong quá khứ.
Trước hết, vua Lý – Lý Công Uẩn hay còn gọi là Lý Thái Tổ – khi dời đô ra Thăng Long đã đọc bài Chiếu dời đô trước toàn thể nhân dân và các quan trong một buổi chiều. Với Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn đã đưa ra những luận điểm, luận cứ sắc bén cho việc dời đô của mình. Mục đích của Chiêu, như ông viết, là do “mệnh trời”, “dựa theo ý dân” và “dựa theo thời thế”. Lý Thái Tổ không tự nhiên nảy ra ý định dời đô, cũng không tự ý dời đô mà căn cứ vào tầm nhìn của mình về tình thế đương thời mà quyết định dời đô.
Chúng ta có thể thấy rằng nhà vua đã đưa ra những lập luận rất xác đáng. Hoa Lư là vùng núi cao, địa hình hiểm trở, không thích hợp cho sự phát triển của đất nước, trong khi Thăng Long lại có nhiều lợi thế: “Ở giữa trời đất, rồng uốn hổ phục, chính diện hướng đông nam. Bắc ghé Tây, tiện thế tựa sông tựa núi, đất rộng mà cao, thoáng…” Không những thế “dân cư không khổ, lam lũ ngập trời, vạn vật trù phú vô cùng”. Qua những lập luận trên ta thấy đây là một vị vua lo nước, lo dân, luôn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu. Đứng trước những lập luận như vậy, người nghe không khỏi cảm thấy bị thuyết phục. Và những quyết định sáng suốt của vua Lý Thái Tổ đã được chứng minh bằng sự hưng thịnh của vương triều Lý sau khi dời đô về Đại La, ta thấy được tầm nhìn xa của một vị vua có tài lãnh đạo và biết nghĩ cho tương lai đất nước.
Nếu Lý Công Uẩn là vị vua thương dân như con, dời đô vì dân thì Trần Quốc Tuấn cũng thể hiện nỗi đau thương dân của mình qua bài Hịch tướng sĩ. Bài Hịch là một “thiên cổ hùng văn” nhưng cũng có giá trị lớn cho ngày nay. Qua bài Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ nỗi xót xa khôn nguôi khi chứng kiến nước ta bị giặc đô hộ. Những câu văn miêu tả nỗi đau buồn ấy khiến người đọc không thể nào quên: “Ta thường quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt tuôn rơi, chỉ tiếc chưa kịp mổ xẻ miếng da, nuốt vào trong gan uống máu quân thù, trăm xác này phơi khô trong cỏ, nghìn xác bọc trong da ngựa, ta cũng hài lòng”. Trần Quốc Tuấn vô cùng căm phẫn và đau buồn trước các thế lực thù địch muốn xâm lược nước mình nên đã viết Hịch để kêu gọi, động viên tướng sĩ đánh giặc.
Không chỉ bày tỏ sự xót xa, vị vua này còn có những lời lẽ cay nghiệt để cảnh cáo quân sĩ: “Nay các ngươi thấy chủ mình xấu hổ mà không biết lo, khi các ngươi thấy nước nhà xấu hổ mà không biết xấu hổ phải đầu hàng giặc mà không biết giận; nghe nhạc đãi ngụy sứ mà không biết hận.” Đây rõ ràng không phải là một vị vua thích xu nịnh, ông muốn binh lính của mình thức tỉnh bằng những lời lẽ cay nghiệt qua đoạn văn Hịch tướng sĩ, ta thấy Trần Quốc Tuấn không chỉ là một vị vua sáng suốt mà còn rất tài giỏi, rất dũng cảm, ông đã dùng nhiều cách khác nhau, từ bày tỏ sự đau buồn, phê phán những sai lầm, đồng thời kêu gọi quân sĩ tích cực nghiên cứu bản tóm tắt binh thư do ông soạn thảo.
Qua hai văn bản “Chiếu dời đô” và “Hịch tướng sĩ” có thể thấy Trần Quốc Tuấn và Lý Công Uẩn là hai vị vua hội tụ đầy đủ các yếu tố của một nhà lãnh đạo tài ba. Họ có tầm nhìn vô cùng sâu sắc, lòng yêu nước, thương dân và đặc biệt là sự trong sáng, sáng suốt trong mọi quyết sách của mình đối với đất nước. Để đất nước ta có được sự phát triển thịnh vượng và vươn xa như ngày hôm nay không thể nào quên công ơn của họ. Nhờ có những vị vua như họ mà đời sống nhân dân lúc bấy giờ được ấm no, không nghèo đói. Mỗi triều đại lịch sử đều có những vị vua khác nhau nhưng đều phải là những bậc hiền tài đứng ra thay dân bảo vệ đất nước và lãnh đạo đất nước.
Trong thời bình, để giúp đất nước đi lên và phát triển, mỗi người lãnh đạo cũng cần có đầy đủ những phẩm chất như ở hai vị vua Trần Quốc Tuấn và Lý Công Uẩn. Tuy nhiên, sự tiến bộ của xã hội ngày nay đòi hỏi bộ máy quản lý nhà nước cũng phải được siết chặt, chỉ đạo từ trên xuống dưới để đạt được hiệu quả tốt nhất. Người lãnh đạo giỏi trong thế kỷ mới không chỉ là người có trí tuệ, tài năng mà còn phải là người phối hợp tốt, với bộ máy quản lý nhà nước để quản lý và xây dựng đất nước. Họ đóng vai trò vô cùng quan trọng và không thể thiếu đối với đất nước.
Không ai được sinh ra với những gì nó cần để trở thành một nhà lãnh đạo. Nó phải được luyện tập, trau dồi trong nhiều năm mới thành công. Vì vậy, mỗi người hãy luôn cố gắng phấn đấu, tích lũy kiến thức, xây dựng cho mình những kỹ năng mềm nhất định để trở thành người có tư cách, có ích cho xã hội.
3. Suy nghĩ về vai trò của người lãnh đạo đối với đất nước ấn tượng nhất:
Có thể nói, dân tộc Việt Nam đã trải qua hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, đó là một truyền thống rất đáng tự hào. Đất nước thái bình thịnh trị là nhờ tài và đức của các vị vua, tướng như Lý Công Uẩn (tức vua Lý Thái Tổ), Trần Quốc Tuấn (tức Hưng Đạo Vương). Họ là những nhà lãnh đạo sáng suốt suốt đời vì vận mệnh đất nước. Dựa vào văn bản “Chiếu sáng kinh đô” của Lý Công Uẩn và văn bản “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, chúng ta sẽ làm sáng tỏ điều đó.
Như chúng ta đã biết, Lý Công Uẩn là người thông minh, nhân ái, có chí lớn và lập nhiều chiến công. Vì vậy, khi Lê Ngọa Triều mất, ông được quần thần lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Thuận Thiên.
Lý Công Uẩn lên ngôi lập tức quyết định dời đô Hoa Lư ra Đại La, bởi nhà vua hiểu rằng Đại La là vùng đất nhân dân sẽ yên vui, đất nước sẽ thịnh trị muôn đời. Lý Công Uẩn quyết định như vậy không phải theo ý mình mà là để lo cho vận mệnh đất nước, hợp với lòng dân.
Người viết “Chiếu dời đô” đã bày tỏ mục đích dời đô là: “mệnh trời”, “thuận theo ý dân”. Đọc văn bản “dời đô” ta có cảm tưởng Lý Công Uẩn là không chỉ là vị vua tài giỏi mà còn cả đức độ, ông xứng đáng là vị vua anh minh, vị hoàng đế muôn đời.Quyết định dời đô của ông là rất sáng suốt bởi 200 năm kinh đô Đại La hùng mạnh, nhân dân thái bình thịnh trị.
Trong thời kỳ dân tộc Đại Việt phải đối phó với quân Nguyên – Mông hung hãn, Nguyên soái Trần Quốc Tuấn hay còn gọi là Hưng Đạo Vương đã ba lần cầm quân đánh tan quân xâm lược. Ông xứng đáng là anh hùng dân tộc.
Trước năm 1285, Trần Quốc Tuấn viết bài “Hịch tướng sĩ” với mục đích kêu gọi các tướng sĩ học võ, luyện võ để chuẩn bị đánh giặc. Bài Hịch có sức thuyết phục cao bởi lập luận chặt chẽ, logic.
Trong bài Hịch Trần Quốc Tuấn đã khôn ngoan nêu gương trung thần, nghĩa sĩ của Trung Quốc đã dễ dàng đánh trúng vào lòng tự trọng của các tướng lĩnh dưới quyền. Ông nhắc lại cách đối xử thân thiện với họ, chỉ cho họ tội ác của kẻ thù, bày tỏ nỗi lòng của mình trước vận mệnh của đất nước.
Trần Quốc Tuấn đã phản ánh và phê phán sự thờ ơ vô trách nhiệm của các tướng sĩ. Vạch ra nguy cơ mất nước, rồi lật ngược vấn đề: Tướng sĩ nếu chỉ chăm chăm học binh thư, luyện võ thì ai cũng lưu danh sử sách.
Với cách lập luận như vậy, Trần Quốc Tuấn đã khơi dậy, cổ vũ tinh thần yêu nước, căm thù giặc của mọi người.
Trần Quốc Tuấn vốn là con nhà võ nhưng đã thấu triệt đạo làm người, hiểu rõ “tam quốc, ngũ chung”. Anh xứng đáng là tấm gương cho các chiến sĩ noi theo. Trong kho tàng văn học dân tộc “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn xứng đáng là áng “An thiên cổ hùng văn”, “tiếng kèn xung trận hào hùng”, mãi mãi là của nhân dân thời Trần (thế kỷ XIII) và muôn dân. Đời sau không bao giờ quên công lao của ông.
Tóm lại, lịch sử Việt Nam có những trang vàng chói lọi là nhờ các vị vua anh minh, các vị tướng như Lý Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi,… Họ là tấm gương sáng cho đời. Chúng ta nhớ Bác Hồ, người đã lãnh đạo toàn dân giành được độc lập ngày hôm nay. Chúng tôi chắc chắn rằng Bác Hồ đã noi gương các bậc tiền nhân. Hãy sống xứng đáng với sự hy sinh của họ. Bác từng nói: “Các Vua Hùng có công dựng nước, Bác và các cháu phải cùng nhau bảo vệ non sông”. Và Bác cũng ân cần dạy các bạn trẻ “Có tài mà không có đức thì cũng vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.