Việt Nam  là quốc gia nằm ven bờ Tây của Biển Đông, có bờ biển dài 3.260km, vùng biển rộng khoảng trên 1 triệu km2, với hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, cùng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở vị trí tiền tiêu và liền kề với vùng biển của các nước trong khu vực. Chính vì thế, xung quanh 2 quần đảo này, nhất là đối với quần đảo Trường Sa, từ lâu đã tồn tại các tranh chấp về chủ quyền giữa các bên hết sức phức tạp ( Trung Quốc, Malaysia, Philip, Brunei,Việt Nam  và phần lãnh thổ Đài Loan). Căn cứ vào nguyên tắc của Luật pháp và thực tiễn quốc tế có liên quan đến quyền thụ đắc lãnh thổ, Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đặc biệt, căn cứ vào Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển và thềm lục địa bao hàm cả quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa được xác lập là phù hợp với Công ước, được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Tuy  nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau, một số nước và vùng lãnh thổ đã tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Mặt khác, do việc giải thích và áp dụng Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 của những nước có biển, nằm ven bờ Biển Đông khác nhua, nên đã hình hành các khu vực biển và thềm lục địa chống lấn. Từ thực tế, tại Biển Đông hiện đang tồn tại các loại tranh chấp chủ quyền biển, đảo chủ yếu:

Thực trạng tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và vị trí chiếm đóng đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

 

1. Đối với quần đảo Hoàng Sa:

Trung Quốc đã tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Việt Nam vào đầu TK thứ XX (1990), mở đầu là sự kiện Đô Đốc Lý Chuẩn chỉ huy 3 pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm, sau đó phải rút lui vì sự hiện diện của quân đội viễn chinh Pháp với tư cách là lực lượng được Chính quyền Pháp, đại diện cho nhà nước Việt Nam, giao nhiệm vụ bảo vệ, quản lý quần đảo này.

Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận, chính quyền Trung Hoa Dân quốc đưa lực lượng ra chiếm đóng nhóm phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Khi Trung Hoa Dân quốc bị đuổi ra khỏi Hoa lục, họ phải rút luôn số quân đang chiếm đóng ở quần đảo Hoàng Sa.

Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương theo quy định của Hiệp định Giơ ne vơ và trong khi chính quyền Nam Việt Nam chưa kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa, CHND Trung Hoa đã đưa quân ra chiếm đóng nhóm phía Đông quần đảo Hoàng Sa.

Năm 1974, lợi dụng quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang trên đà sụp đổ, quân đội viễn chinh Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, CHND Trung Hoa lại huy động lực lượng quân đội ra xâm chiếm nhóm phía Tây Hoàng Sa đang do quân đội Việt Nam Cộng Hòa đóng giữ.

Mọi hành động xâm lược bằng vũ lực nói trên của CHDC Trung Hoa đều gặp phải sự chống trả quyết liệt của quân đội Việt Nam Cộng hòa và đều bị Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, với tư cách là chủi thể trong quan hệ quốc tế, đại diện cho Nhà nước Việt Nam quản lý phần lãnh thổ miền Nam Việt Nam theo quy định của Hiệp Định Giơ-ne-vơ năm 1954, lên tiến phản đối mạnh mẽ trên mặt trận đấu tranh ngoại giao và dư luận.

 

2. Đối với quần đảo Trường Sa

2.1. Trung Quốc:

Đã tranh chấp chủ quyền đói với quần đảo Trường Sa từ những năm 30 của thế kỷ trước, mở đầu bằng một công hàm của Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi cho Bộ Ngoại Giao Pháp khẳng định “ các đảo Nam Sa là bộ phận lãnh thổ Trung Quốc” .

     Năm 1946, quân đội Trung Hoa Dân quốc xâm chiếm đảo Ba Bình.

Năm 1956, quân đội Đài Loan lại tái chiếm đảo Ba Bình.

Năm 1988, CHND Trung Hoa huy động lực lượng đánh chiếm 6 vị trí, là những bãi cạn nằm về phía tây bắc Trường Sa ra sức xây dựng, nâng cấp, biến các bãi cạn này thành các điểm đóng quân kiên cố, như những pháo đài trên biển. Năm 1995, CHND Trung Hoa lại huy động quân đội đánh chiếm đá Vành Khăn, nằm về phía đông nam quần đảo Trường Sa. Hiện nay họ đang sử dụng sức mạnh để bao vây, chiếm đóng bãi cạn Cỏ Mây, nằm về phía Đông, gần với đá Vành Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa. Như vậy, tổng số đá, bãi cạn mà phía Trung Quốc đã dùng sức mạnh để đánh chiếm ở quần đảo Trường Sa cho đến nay là 7 vị trí. Đài Loan chiếm đóng đảo Ba Bình là đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa và mở rộng thêm 1 bãi cạn rạn san hô là bãi Bàn Than.

 

2.2. Phi- líp- pin:

Bắt đầu tranh chấp chủ quyền với quần đảo Trường Sa bằng sự kiện Tổng thống Quirino tuyên bố rằng quần đảo Trường Sa phải thuộc về Phi- líp-pin vì nó ở gần Phi-líp-pin.

Từ năm 1971 đến năm 1973, Phi-líp-pin đưa quân chiếm đóng 5 đảo; năm 1977-1978 chiếm thêm 2 đảo, năm 1979 công bố Sắc lệnh của Tổng thống Marcos ký ngày 11 tháng 6 năm 1979 gộp toàn bộ quần đảo Trường Sa vào trong một đơn vị hành chính gọi là Kalayaan, thuộc lxnh thổ Phi-líp-pin. Năm 1980,Phi-líp-pin đóng chiếm thêm 1 đảo nữa nằm về phía Nam Trường Sa, đó là đảo Công Đo… đến nay, Phi-líp-pin chiếm đóng 9 đảo, đá trong quần đảo Trường Sa.

 

2.3. Mai-lai-xia:

Mở đầu bằng sự việc Sứ quán Mailai ở Sài Gòn, ngày 03 tháng 2 năm 1971 gửi Công hàm cho Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa nói rằng quần đảo Trường Sa hiện thời thuộc nước Cộng hòa Morac Songhrati Mead có thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa hay Việt Nam Cộng hòa có yêu sách đối với quần đảo đó hay không? Ngày 20 tháng 4 năm 1971, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa trả lời rằng quần đảo Trường Sa thuộc laxh thổ Việt Nam, mọi xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở quần đảo này đều bị coi là vi phạm pháp luật Quốc tế.

Tháng 12 năm 1979, Chính phủ Malay xuất bản bản đồ gộp vào lãnh thổ Malay khu vực phía Nam Trường Sa, bao gồm đảo An Bang và Thuyền Chài đã từng do quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ.

Năm 1983-1984, Malay cho quân chiếm đóng 3 bãi ngầm ở phía Nam Trường Sa là Hòa Lau, Kiệu Ngựa, Kỳ Vân. Năm 1988, họ đóng chiếm thêm 2 bãi ngầm nữa là Én Đất và Thám Hiểm. Hiện nay, Malay đang chiếm giữ 5 đảo, đá, bãi cạn trong quần đảo Trường Sa.

 

2.4. Brunei:

Tuy được coi là một bên tranh chấp liên quan đến khu vực quần đảo Trường Sa, nhưng trong thực tế Brunei chưa chiếm đóng một vị trí cụ thể nào. Yêu sách của họ là ranh giới vùng biển và thềm lục địa được thể hiện trên bản đồ có phần chồng lấn lên khu vực phía Nam Trường Sa. 

Hiện nay, các văn bản pháp lý liên quan việc giải quyết tranh chấp tại các vùng biển nói chung và tại Biển Đông nói riêng có sự gia tăng và phát triển mạnh về số lượng và chất lượng, tạo ra nhiều sự ràng buộc khác nhau cho các bên tranh chấp. Các văn bản pháp lý này được xem như những luật chơi chung mà  tất cả các quốc gia tranh chấp phải áp dụng và tuân thủ. Tuy nhiên trên thực tế vấn đề Biển Đông, trong khi hầu hết các bên tranh chấp đều dựa trên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 để tuyên bố những đòi hỏi chủ quyền thì Trung Quốc lại đưa ra yêu sách “đường lưỡi bò” một cách phi lý và không dựa trên Luật pháp quốc tế. Theo đó, Trung Quốc yêu sách gần 80% Biển Đông và cho rằng đó là vùng nước lịch sử của họ. Yêu sách này hiện đang gây ra sự tranh cãi và gặp phải sự phản đối gay gắt của rất nhiều nước trong và ngoài khu vực. Điều này làm cho tình hình tranh chấp ở Biển Đông thêm căng thẳng và phức tạp. Ngoài ra, một số văn bản pháp lý khác mà các bên liên quan đã dành nhiều thời gian và mất công nghiên cứu soạn thảo để góp phần giảm bớt căng thẳng tại Biển Đông như Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông, tiến tới là Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC)… hiện vẫn chưa đạt được sự thống nhất triệt để và chưa thực sự được triển khai trên thực tế.

  Cuộc tranh chấp Biển Đông hiện vẫn đang là một “nguy cơ” gây bất ổn trong khu vực. Tranh chấp Biển Đông đã trở thành một trong những cuộc tranh chấp phức tạp bậc nhất trên thế giới. Sự phức tạp của tranh chấp Biển Đông đến từ các yêu sách phức tạp về chủ quyền của nhiều quốc gia đối với các khu vực chồng lấn, hơn thế nữa, nó không chỉ đơn thuần là tranh chấp về mặt luật pháp quốc tế về biên giới biển, lãnh thổ trên biển mà nó còn được đan xen với những lợi ích về địa – chính trị, về kiểm soát con đường vận tải biển chiến lược, và về khai thác các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là dầu mỏ. Thực tế cho thấy tranh chấp các đảo trong Biển Đông đã trở thành một trong những vấn đề an ninh quan trọng nhất trong khu vực bởi yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc sẽ có tác động rất lớn đến việc phân định các đường biên giới biển của khu vực này trong tương lai, và cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ cũng như quyền lợi trên biển của nhiều nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.

 

3. Bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý đầu đủ của Việt Nam

Về việc giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với lãnh thổ, pháp luật quốc tế đã hình thành nguyên tắc xác lập chủ quyền là nguyên tắc chiếm hữu thật sự và thực hiện quyền lực Nhà nước một cách thật sự, liên tục và hòa bình. Nguyên tắc này đã được nhà nước và các cơ quan tài phán Quốt tế áp dụng để giải quyết nhiều vụ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên toàn thế giới.

Áp dụng nguyên tắc nói trên cỉa pháp luật quốc tế vào trường hợp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý đã cho thấy rằng các Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này hàng trăm năm qua. Nói chính xác là các nhà nước Việt Nam trong lịch sử và cho tới nay đã thực thi chủ quyền ở đây ít ra thừ TK XVII khi hai quần đảo chưa thuộc chủ quyền của nước nào. Từ đó Việt Nam đã thực hiện việc xác lập và thực thi chủ quyền của mình đối với hay quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa một cách liên tục và hòa bình.

Các bằng chứng mà Việt Nam thu được rất phong phú, mặc dù như đã nói do hoàn cảnh chiến tranh liên tục nên nhiều thư tịch cổ của Việt Nam đã bị mất, thất lạc. Tuy nhiên, những tư liệu còn lại đến nay và chính sử vẫn đủ để khẳng định chủ quyền của Việt Namtrên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Một là, các bản đồ Việt Nam thế kí XVII đã gọi hai quần đảo bằn cái tên Bãi Cát Vàng và ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi. Hai là, nhiều tài liệu cổ của Việt Nam như Toàn Tập Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư ( TK XVII), Phủ Biên Tạp Lục ( 1776),  Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính Biên (1844-1848), Đại Nam Nhất Thống Chí ( 1865- 1875), … đều nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như là Bãi  Cát Vàng vạn dặm trên Biển Đông và việc Nhà nước cử đội Hoàng Sa ra khia thác quần đảo này. Ba là, nhiều sách cổ, bản đồ cổ của nước ngoài cũng thể hiệncác quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đỉnh cao nhất việc tuyên bố và xác lập chủ quyền của Việt nam trên hai quần đảo vào năm 1816  khi vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng Sa cắm cờ tuyên bố chủ quyền.

Năm 1951, tại Hội nghị San Francisco có một đề nghị bổ sung bản dự thảo Hòa ước yêu cầu trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng hội nghị đã bác bỏ đề nghị này vs số phiếu áp đảo là 46 phiếu thuận, 3 phiếu trống và 1 phiếu trắng. Tại hội nghị, Ngoại trưởng Trần Văn Hữu dẫn đầu phái đoàn Chính phủ Quốc Gia Việt Nam đã tuyên bố khẳng định chủ quyền lâu đời của người Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp sự phản đối hay bảo lưu của nước nào. Năm 1956, Pháp chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho Chính quyền Việt Nam Cộng hòa và chính quyền đã cho ra quân tiếp quản, tổ chức hai quần đảo về mặt hành chính ( lập ở mỗi quần đảo một xã thuộc một huyện của đất liền), xây các bia chủ quyền và duy trì các trạm khí tượng.

Năm 1975, chính quyền VNCH sụp đổ, Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp quản đầu đủ các đảo do Quân Đội VNCH cai quản trên Biển Đông. Nhà nước Việt Nam thống nhất sau đó tiếp tục khẳng định chủ quyền của người Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ban hành nhiều văn bản hành chính nhà nước thành lập các huyện đảo Trường Sa và huyện đảo Hoàng Sa cũng như hoàn thiện việc quản lý hành chính trên các đảo này.

Công ước Luật Biển 1982 cho phép các quốc gia ven biển được hưởng quy chế thềm lục địa để thăm dò và khai thác tài nguyên. Đây là chủ quyền chuyên biệt, không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm hữu, khia phá hay tuyên bố minh thị. Mọi sự tùy tiện chiếm cứ của nước ngoài dù có bằng vũ lực hay không đều bất hợp pháp và vô hiệu lực. Về mặt địa lý, đảo Tri Tôn, quần đảo Hoàng Sa chỉ cách Quảng Ngãi 135 hải lý và đảo Hoàng Sa chỉ cách lục địa Việt Nam 160 hải lý. Vì vật, quần đảo Hoàng Sa nằm trong thềm lục địa của Việt Nam được quy định bở Công ước về Luật Biển 1982. Về mặt địa chất, các nghiên cứu khoa học đều cho thấy quần đảo Hoang Sa là một thành phần của Việt Nam. Về địa hình, đáy biển vùng quần đảo Hoàng Sa là một cao nguyên chìm dưới đáy biển nối tiếp liên tục lục địa Việt Nam. Tại quần đảo Trường Sa cũng vậy, về mặt địa chất và địa hình đáy biển các đảo Trường Sa là sự nối tiếp tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền ra ngoài biển. Hơn nữa, bãi Tư Chính và đảo Trường Sa chỉ cách đất liền Việt Nam từ  150 đến 200 hải lý, nằm trong thềm lục địa của Việt Nam.  

(Luật Minh KHuê tổng hợp từ nhiều nguồn trên internet – không rõ tác giả)