Thương vợ là một trong những bài thơ xuất sắc của tác giả Trần Tế Xương khi ông trực tiếp bộc lộ tình cảm của bản thân với người vợ tần tảo của mình. Dưới đây hãy cùng chúng tôi tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ thương vợ của Trần Tế Xương hay nhất.
1. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Thương vợ (Trần Tế Xương) hay nhất:
Nhà thơ Trần Tế Xương, ông thường lấy tên viết là Tú Xương, ông là một tác giả trào phúng nổi tiếng, có lẽ là tác giả có phong cách thơ trào phúng độc đáo nhất trong nền văn học nước nhà. Nhiều người mê thơ trào phúng của ông bởi chất thơ rất riêng, sự châm biếm khiến người đọc vừa cười vừa mang nhiều suy ngẫm.
Dòng thơ trữ tình Tú Xương có lúc được chia thành thơ trữ tình trong sáng và thơ trữ tình thâm sâu. Hai bài thơ đặc sắc là “Sông Lấp” cùng “Thương vợ” là những bài thơ điển hình cho dòng trữ tình của Tú Xương.
Vợ của Trần Tế Xương tên Phạm Thị Mẫn người Hải Dương. Một người phụ nữ dịu dàng. Cô có 8 người con với Trần Tế Xương. Trong hoàn cảnh nghèo khó và thất bại trên đường danh lợi, nhà thơ và các con phải sống nhờ sự tần tảo của bà Phạm Thị Mẫn.
Thương vợ là bài thơ Tú Xương viết hàng loạt bài thơ tặng vợ như: Văn tế sống vợ, Tết dán câu đối,…
Bài thơ viết vào khoảng năm 1896-1897, khi nhà thơ 26-27 tuổi. Lúc bấy giờ, gia đình Trần Tế Xương trở nên nghèo khó, khiến cho bà Tú rất vất vả.
2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Thương vợ mẫu đầy đủ nhất:
Trần Tế Xương sinh năm 1870 và mất năm 1907, tên tự là Tú Xương, quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Tú Xương có cá tính sắc sảo, phóng túng, khó phù hợp với khuôn sáo học đường nên dù có tài nhưng câu danh dự nghiệp lận đận đủ đường. Khi xã hội phong kiến cũ chuyển mình thành xã hội phong kiến thực dân mỗi ngày anh đều bị những thứ trước mắt đập vào mắt và gây ra phản ứng trong tâm trạng. Và điều đó được thể hiện ở hai nội dung chính trong thơ Tú Xương: trữ tình và trào phúng.
Thương vợ là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về vợ mình là bà Tú. Thương vợ được chia thành bốn phần theo kết cấu chủ, sự việc và luận điểm, kết hợp với kết cấu chặt chẽ, nó thành công về tên gọi và cả về mặt ngôn ngữ, thi pháp. Ngôn ngữ Nôm bình dân, hình ảnh thơ bình dân, gần gũi với đời sống. Câu văn, câu thực là suy nghĩ của nhà thơ về sự vất vả nuôi gia đình của người phụ nữ, điều đó thể hiện sự cảm thông, trân trọng.
Câu thơ là sự ca ngợi đức hi sinh của người phụ nữ. Câu cuối là một lời nguyền cuộc đời nặng nề đối với một người đã trở nên vô dụng. Bài thơ ca ngợi đức hy sinh của người phụ nữ và sự hiểu biết của người đàn ông. Ngôn ngữ giản dị, đời thường nhưng bằng tài năng và tấm lòng Tú Xương đã tạo nên một vần thơ sâu sắc, chứa đựng giá trị nhân văn trường tồn. Qua bài thơ này, Tú Xương đã dựng nên một hình tượng nghệ thuật cao đẹp về người phụ nữ Việt Nam đầy đức hi sinh, chịu thương chịu khó và hết lòng vì gia đình.
3. Ý nghĩa nhan đề bài thơ Thương vợ:
Nhan đề Thương vợ thể hiện một chủ đề mới lạ trong thơ ca trung đại. Nó thể hiện tình cảm sâu nặng của Tú Xương đối với vợ và thể hiện trọn vẹn vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương.
Giá trị nội dung của tác phẩm Thương vợ: Xây dựng thành công hình tượng bà Tú – là người vợ phải làm lụng vất vả gồng gánh gánh nặng cơm áo gạo tiền của gia đình trên đôi vai gầy.
Bên cạnh là ảnh bà Tú, phía sau là ảnh ông Tú đầy tự tin. Bà Tú càng gan góc, tháo vát, chăm chỉ bao nhiêu thì ông Tú càng bé nhỏ, mờ mịt, vô dụng bấy nhiêu. Đây là sự thất bại của người trí thức đương thời trước cuộc sống trôi nổi và xã hội quan liêu thối nát.
Giá trị nghệ thuật của tác phẩm “Thương vợ” : Việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt giản dị, tự nhiên và rõ ràng; Tình cảm chân thành vốn có trong thơ trữ tình của Trần Tế Xương cùng với sự vận dụng sáng tạo hình tượng con cò và chất dân gian trong việc thể hiện hình tượng bà Tú .
Hình tượng bà Tú được nhắc đến với giọng điệu ngợi ca, chan chứa yêu thương và ẩn chứa hình bóng tác giả nó được đề cập với giọng điệu trào phúng, vô ích.
4. Phân tích chi tiết bài thơ:
4.1. Hình ảnh bà Tú:
* Hai câu thực:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
– Nghề nghiệp: tiểu thương
– Thời gian: là quanh năm => ngày qua ngày, tháng qua tháng, không nghỉ ngày nào.
– Vị trí: bên dìa sông (mảnh đất kéo dài ra bờ suối, nơi dân vạn chài thường tụ tập mua bán) => hai chữ “mom sông” diễn tả một cuộc đời lam lũ, nắng mưa, cuộc sống cơ cực, chật vật mưu sinh.
– Hình ảnh “Nuôi đủ năm con với một chồng”: thể hiện gánh nặng gia đình nặng trĩu mà người phụ nữ, người mẹ, người vợ ấy phải gánh vác.
– Hình ảnh đếm chồng và con => ẩn chứa nỗi niềm chua xót đối với một gia đình khó khăn: đông con mà người đàn ông phải ăn bám vợ mình.
=> Hai câu kết tả thực cuộc sống tần tảo, chính xác hơn là ám chỉ công việc kinh doanh thăng trầm của bà Tú.
* Hai câu đề:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
– Cảm nhận rõ trước những khó khăn, bất hạnh của vợ, Tế Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú: thân cò gợi nhớ bà Tú và thân phận người phụ nữ Việt Nam cơ cực, khổ cực trong xã hội cũ.
– Ba chữ “khi quãng vắng” nói lên không gian tĩnh lặng đầy lo toan, hiểm nguy.
– Đoạn thơ dùng phép đảo ngữ (từ “lặn lội” đặt ở đầu câu) thay từ “thân cò” càng làm nặng thêm nỗi vất vả của bà Tú. Chỉ khác là từ “thân cò” còn gợi sự ngậm ngùi cho thân phận. Lời văn vì thế mà cũng sâu sắc hơn, thấm thía hơn.
– Câu thơ thứ tư diễn tả sự vật lộn với cuộc sống khó khăn của bà Tú:“Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.
+ Eo sèo: là từ tượng thanh có nghĩa là ngừng lại, than thở lớn tiếng, vụng về => tả cảnh tranh giành, tranh giành trong công việc kinh doanh.
+ Câu thơ gợi lên cảnh người dân tụ tập, đông đúc, lộn xộn với tiểu thương bên sông.
+ “Buổi đò đông” ẩn chứa bao lo toan, hiểm nguy “khi quãng vắng”.
+ Khả năng tương phản nhấn mạnh cảnh nghèo đói khủng khiếp. Bát cơm manh áo mà bà Tú kiếm được để lo cho “một chồng nuôi năm con” đã phải lội mưa dãi nắng, vất vả và trả giá trong gian khó bằng mồ hôi và nước mắt.
* Hai câu luận
“Một duyên hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa dám quản công.”
– Nhà văn vận dụng rất sáng tạo hai cách diễn đạt “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, cân xứng hài hòa, giàu màu sắc dân gian trong cách quan sát và cách diễn đạt:
+ “Duyên phận” là định mệnh, là sự ràng buộc của ông tơ bà nguyệt, là ” cái nợ” của cuộc đời mà bà Tú phải chấp nhận, chịu đựng.
+ “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi khó khăn, vất vả.
+ Số từ trong câu thơ tăng dần: “một. ..hai…mười…nhấn rõ sự hy sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu khó vì ấm no, hạnh phúc của chồng con, gia đình.
+ “ u đành phận”, … “dám quản công”… lời thơ thật xót xa, đáng thương, tiếc thương, chấp nhận số phận vất vả lận đận của bản thân.
=> Tóm lại, sáu câu thơ đầu Tú Xương đã nêu ra với lòng biết ơn và ngưỡng mộ một số phẩm chất rất chân thực và cảm động của bà Tú, người vợ hiền của ông với nhiều đức tính đáng quý: dũng cảm, cần cù, chịu khó, hy sinh thầm lặng cho ông cùng các con được cảm nhận hạnh phúc gia đình
4.2. Tâm sự của tác giả:
– Hai câu thơ cuối, tác giả đã dùng nhiều từ ngữ bình dị, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất chân thận, tự nhiên:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.”
+ Mục đích của chửi là để người viết trực tiếp tự trách mình trong im lặng, nhận ra sự vô giá trị của bản thân. Nhưng đó là lẽ thường tình trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ. Tú Xương dám nhận làm một việc mà không phải người đàn ông nào trong xã hội ấy cũng dám làm đó là cho mình là “ông quan của lương vợ” thừa nhận khuyết điểm của mình. Nó cho thấy tác giả là một người có nhân cách cao đẹp.
=> Hai câu cuối vừa là một câu chuyện thương tâm vừa xót xa, là tiếng nói của một tác giả, tiếng nói của một người tri thức nghèo thương vợ thương con, giàu nhân cách. Tú Xương yêu vợ như thương mình: hoàn cảnh thực đi một thi sĩ như cuộc đời đổi thay.
4.3. Giá trị Nội dung:
– “Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong số những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó vừa là một bài thơ bí mật vừa là một bài thơ thế tục. Đoạn thơ chan chứa tình yêu thương nồng ấm của nhà thơ dành cho người vợ hiền.
4.4. Giá trị nghệ thuật:
– Bài thơ Thương vợ được viết theo thể thơ bảy chữ.
– Giọng thơ rất đỗi giản dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày.